Post by NHAKHOA on Dec 27, 2006 2:46:00 GMT -5
Thuật nắn xương là gì
và làm cách nào để điều này bổ ích cho bạn?
JÓSEPH GRASSO. D.O.
--------------------------------------------------------------------------------
Chu Hữu Tín
nguồn "www.khoahoc.net"--------------------------------------------------------------------------------
Thuật nắn xương được thiết lập bởi Bác sĩ Andrew Taylor Still, Bác sĩ Y khoa năm 1874. Bác sĩ Still là một bác sĩ và một mục sư. Ông điều trị bệnh nhân của ông bằng cách dùng môn học y khoa sẵn có vào lúc đó và trở nên nản lòng với tính có độc tố nghiêm trọng gắn với các phương pháp điều trị trên. Cuối cùng ông đã thúc đẩy việc tìm ra một phương pháp khác khi ba trong những con trai của ông đã chết vì viêm màng não cột sống khi ông khi ông không nhận được sự hỗ trợ nào và không thể cho họ bất kể phương pháp trị liệu.
Ông bắt đầu khảo nghiệm và tìm thấy con đường trở lại phòng thí nghiệm giải phẫu và bắt tay làm việc học tập mọi điều ông có thể thực hiện về cơ thể học và chức năng của nó. Điều này, ngoai tri thức về y học của ông, liên kết trong việc tạo ra một môn học thực nghiệm độc nhất đã phát triển thành một trong những phương pháp chẩn đoán có hiệu quả nhất hiện nay và điều trị bệnh nhân. Ông bắt đầu việc điều trị mọi kiểu tính chất bất thường bằng cách dùng đôi tay của ông như bệnh bạch hầu, bệnh dịch tả, bệnh viêm nhiễm dễ cảm ứng đường ruột, những vấn đề thuộc bộ cơ xương, bệnh do vi rút và vi khuẩn kết hợp, kể ra vài bệnh và việc điều trị bệnh thành công vượt mức vào một thời điểm khi thuốc kháng sinh chưa được khám phá và việc điều trị y học cổ xưa.
Thuật nắn xương được công nhận
Thuật nắn xương đã phát triển một cách có ý nghĩa hiện nay trong đó có 20 trường y khoa dạy thuật nắn xương ở Hoa Kỳ và vài trường ở nước ngoài gồm có châu Âu, Úc châu và Tân Tây Lan, Nam Mỹ và Canada. Chỉ ở Hoa kỳ có bác sĩ chuyên môn nắn xương, có quyền hành nghề y khoa như bác sĩ y khoa và bác sĩ nha khoa. Thật vậy, thuật nắn xương là một môn học y khoa hoàn toàn giảng dạy cho sinh viên thêm vào kỷ luật thực nghiệm độc nhất trong trường học của chúng ta. Kỷ luật thực nghiệm độc nhất này là trung tâm của điều gì thuật nắn xương cổ truyền có liên quan.
Nói chung, bạn sẽ thấy trình bày vài môn học phát sinh từ một trong những sinh viên của bác sĩ Still, William Garner Sutherland, đã gọi, thuật nắn xương sọ hoặc thuật nắn xương trong lĩnh vực sọ. Công trình của bác sĩ về khái niệm sọ đã tiến hóa thành phương pháp điều trị tập trung vào toàn bệnh nhân và đây là sự tiến hóa tổng hợp vào tặng phẩm của bác sĩ Still tặng cho chúng tôi. Sẽ được trình bày thêm sau này.
Phương pháp điều trị trí nhớ, cơ thể và tinh thần
Nói chung, thuật nắn xương được đặt tên bởi bác sĩ Still như là một biện pháp điều trị bệnh nhân có ý nghĩa hoàn toàn nhìn vào vào mặt của sức khỏe: trí nhớ, cơ thể và tinh thần. Đây là một môn học y khoa tập trung vào việc tìm ra nguyên nhân của vấn đề nhiều hơn là điều trị các triệu chứng. Mô hình (MD) chữa trị đối chứng tiêu chuẩn được tập trung vào các triệu chứng và điều trị các triệu chứng đó để loại trừ chúng. Cùng một mô hình đã thấy trong lãnh vực nha khoa (D.D.S hoặc D.M.D.) trong đó bác sĩ nha khoa tập trung vào vấn đề nhiều hơn là quá trình gây ra vấn đề.
Thuật nắn xương truyền thống hiểu rõ là cơ thể có một khả năng trong tự chữa vào họat động trong việc nhận thức, về mặt lên mặt dạy đời và về mặt nhận thức, làm cách nào cơ thể hoạt động không những trong tình trạng bình thường, mà còn trong tình trạng bệnh để đồng bộ hóa với sức khỏe và cho phép bệnh nhân tự chữa bệnh. Khả năng đồng bộ hóa này cơ bản không trên bệnh, mà đúng ra về việc làm cách nào người ta hoạt động trong quan hệ với nó. Sự hiện diện của bệnh trong cuộc sống của một người có thể chie là quan trọng như sức khỏe, khi tiến triển bệnh có thể hành động như một điểm tựa hỗ trợ bệnh nhân tiến hóa. Điều này là một khái niệm rất quan trọng kho phương pháp trong đó một bác sĩ tiếp cận với một bệnh nhân có thể có một ảnh hưởng to lớn về kết quả của việc chăm sóc họ.
Thực hành dựa trên mô hình y tế
Điều này là tại sao chúng ta phải nhận thức là thuật nắn xương bắt nguồn từ y học và nhìn về việc hội nhập mọi môn học y khoa lại với nhau và tập trung vào sức khỏe nhiều hơn so với bệnh. Điều này có nghĩa là một môn học luân phiên cho phép bác sĩ hành nghề y khoa nhưng đồng thời hội nhập các nguyên tắc truyền thống chăm sóc hoàn toàn bằng cách dùng một phương pháp tiếp cận thực nghiệm. Điều này gồm có việc hội nhập và việc ứng dụng dinh dưỡng, đào tạo nhận thức, nghệ thuật sống và điều dưỡng luyện tập và việc hội nhập những môn học khác để hỗ trợ bệnh nhân.
Đa phần những bác sĩ về xương ở Hoa Kỳ thực hành không khác so với bác sĩ y khoa và không sử dụng những mặt cổ truyền của thuật nắn xương như AT Still đã trình bày với chúng tôi. Vì thế, môn học thực nghiệm độc nhất không được hội nhập trong phương pháp thực hành của họ.
Các bác sĩ chữa đối chứng và bác sĩ nha khoa là những môn học y khoa khác ở Hoa Kỳ được giảng dạy thường xuyên về khái niệm thuật nắn xương. Sự giáo dục của họ là một mặt căn bản trong việc thực hành thuật nắn xương truyền thống khi cần để đưa đến việc nhận thức nó. Ngoài ra, chúng còn được trình bày với bệnh nhân cần điều trị hoàn toàn và phải nhận thức là cơ thể hành động như một đơn vị và không thể tách riếng thành từng phần.
Các vấn đề về miệng có thể có ảnh hưởng ngược trên phần còn lại của bệnh nhân từ đó tạo ra và góp phần vào vài tiến triển bệnh. Tương tự, phép chữa đối chứng mà đào tạo y khoa giống với thuật nắn xương trừ trường hợp đào tạo thực nghiệm không phải là một phần chương trình giảng dạy, cần trong việc điều trị bệnh nhân; như một toàn thể. Chắc chắn, một chuyên gia có thể là cần trong việc chẩn đoán và ngay cả điều trị một bệnh nhân, và giải phẫu có thể được chỉ dấu nhưng chúng ta phải không bao giờ bỏ quên điều gì đang xảy ra như một toàn thể. Ngay cả khi bác sĩ không dùng điều trị thực nghiệm, ta vẫn có thể thực hành toàn bộ. Nhiều bài báo sẽ được viết trong tương lai liên quan đến đề tài này trong việc hỗ trợ chúng ta mọi người nhận thức về tầm quan trọng của toàn thể và làm cách nào chúng ta làm việc với nó.
Thuật nắng xương sọ
Thuật nắn xương sọ, như đã trình bày trên được xác định bởi Bác sĩ William Garner Sutherland. Đây là phương pháp cơ bản tôi đã dùng trong thực hành. Tôi liên hệ điều này với "thuật nắn xương truyền thống" khi điều này là một phương pháp điều trị tập trung vào bệnh nhân hoàn toàn, không phải chỉ vào đầu, và được dùng trong hội nhập mọi mặt của sức khỏe, và phòng ngừa trong phương pháp thực hành của tôi.
Các giai đoạn bắt đầu
Bác sĩ Sutherland lần đầu tiên tiếp xúc với khái niệm về sọ trong năm 1898 ở tuổi 25 và lần đầu tiên được giới thiệu nó với các đồng nghiệp 31 năm sau năm 1929. Kinh nghiệm đầu tiên của ông với bệnh thô sơ và cơ học nhưng trên 25 năm kinh nghiệm và khai thác, nó tiến hóa thành một khoa học nhận thức tốt. Việc sắp xếp tay của ông lúc đầu rất nặng nề, trực tiếp và cơ học và thường đi kèm bởi băng bó được kết chặt với đầu của một bệnh nhân và để lại đó trong vài ngày. Điều này là, trong một thời gian nhiều năm, được thay bằng cách di chuyển xa từ một mô hình cơ học sang một mô hình khác rất giống nước và gián tiếp trong đó đôi tay của ông rất nhẹ và mềm. Mô hình sau này bắt đầu làm lo mờ mô hình cơ học không những sắp xếp đôi tay của ông, mà còn trong những kết quả lâm sàng của nó khi điều này ưu thế xa và không xâm lấn bệnh nhận.
Một nhịp nhngf trong sọ cũng được thảo luận và trong nhiều năm trở thành một đề tài nóng bởi nhiều nhiều người nắn xương và người trị liệu bên ngoài lãnh vực y khoa. Sự nhịp nhàng được nhận diện một cách cổ điển như di chuyển với một tỷ lệ 8/14 chu kỳ mỗi phút và đã được dùng như một công cụ chẩn đoán và chữa trị bởi nhiều trong chế độ điều trị của chúng. Tuy nhiên, trong thuật nắn xương truyền thống, sự nhịp nhàng này không quan trọng và không thấy có bất kể ý nghĩa trị liệu nào khi nó đến từ hệ thống thần kinh trung tâm (CNS).
Một trong những quà tặng quí giá nhất chính là chúng ta có thể cho loài người là học tập làm cách nào mang CNS vào tình trạng cân bằng, một điều kiện tiên quyết trong trị liệu. Nơi nào phương pháp trị liệu bắt đầu, là nền tảng trị liệu có hiệu quả, và một nguyên tắc cơ bản quan trọng trong thuật nắn xương truyền thống. Nguyên tắc này của tình trạng cân bằng CNS là áp dụng chung.
Sự nhịp nhàng của sọ thường được dùng bởi những bác sĩ thực hiện một phương pháp trị liệu gọi là "điều trị xương cùng sọ" thường nhầm lẫn với thuật nắn xương sọ. Hai phương pháp điều trị không có liên kết và không đồng nhất về bất kể mặt nào chút nào cả. Thuật nắn xương sọ không phải là một phương pháp điều trị và có nền tảng như một khoa học y khoa. Phương pháp điều trị không luôn độc quyền cho đầu hoặc xương cùng, nhưng một phương pháp điều trị hoàn toàn có thể, và sẽ có một ảnh hưởng trên toàn con người. Khóa học về lãnh vực này ở Hoa Kỳ chỉ bị giới hạn ở những bác sĩ y khoa D.O.'s và M.D.'s, bác sĩ nha khoa, và sinh viên y khoa trong đào tạo.
Cũng có những phương pháp khác của phương pháp điều trị thực nghiệm nắn xương là việc dùng thao tác cột sống và mô mềm cũng như những phương pháp khác mà, khi dùng một cách thích hợp, còn là rất hiệu quả. Tầm quan trọng của bác sĩ trong việc dùng những nguyên tắc này liên uan đến toàn bệnh nhân, không dành riêng cho những triệu chứng.
Một phương pháp tiếp cận giản đơn trong điều trị bệnh
Tóm lại, thuất nắn xương là một khoa học y khoa được đặt tên bởi Bác sĩ Andrew Taylor Still. Phương pháp được tạo ra như một khoa học hoàn toàn tập trung vào việc tìm ra nguyên nhân của bệnh và làm việc với bệnh liên quan đến sức khỏe. Sức khỏe, trong mọi tình trạng của bệnh, luôn hiện diên và một cách giản đơn, người ta có thể được đào tạo làm việc với nó không điều kiện. Việc sắp dặt tay được trình bày theo một phương pháp rất nhẹ nhàng và được giảng dạy nghe nhiều hơn thực hiện.
Một nhận thức về giải phẫu học, sinh lý học, phôi học và y khoa lâm sàng là một điều kiện tiên quyết trong nhận thức về việc áp dụng nó. Điều này không được xem như một phương pháp, đúng hơn là một phương pháp tiếp cận giản đơn với một bệnh nhân dựa trên sức khỏe. Phương pháp áp dụng của nó không tự động và thật vậy hai người có một chẩn đoán giống nhau và những triệu chứng giống nhau sẽ một cách không thay đổi được tiếp cận khác nhau. Một bệnh nhân nhận kiểu điều trị này thường là rất ngạc nhiên, khi không xuất hiện bác sĩ làm nhiều nhưng điều này có thể không xa hơn sự thật. Đa phần bệnh nhân sẽ buồn ngủ và thức giấc có cảm giác khác hẳn.
Điều nay không có kết hợp với bất kể thuật ngữ thời đại mới và phải không nhầm lẫn với bất kể môn học khác. Những bài báo trong tương lai sẽ được viết tập trung vào vài điều kiện và làm cách nào chúng ta tiếp cận với chúng. Mong đợi rằng, bài báo này cũng tốt như những bài báo khác sẽ không chỉ hỗ trợ trong việc mở cửa cho việc nhận thức tốt nhiều hơn về thuật nắn xương, mà còn làm cách nào chúng ta cần làm việc với toàn thể và điều trị bệnh từ vị trí sức khỏe.
Ý kiến của Bác sĩ Garcia
Thuật nắn xương truyền thống là một phương pháp tiếp cận y khoa dựa trên y khoa hoàn toàn và thực nghiệm. Dược phẩm và giải phẫu riêng đã chứng tỏ tạo ra ảnh hưởng phụ và tử vong nhiều hơn là cần thiết. Con người thông minh nhiều hơn dược phẩm và y học thường thức có thể nhận thức. Phương pháp thực hành của chúng ta nỗ lực trong việc hỗ trợ chữa bệnh bởi điều trị miệng và cơ thể như một toàn thể không phải là những bộ phận riêng biệt.
và làm cách nào để điều này bổ ích cho bạn?
JÓSEPH GRASSO. D.O.
--------------------------------------------------------------------------------
Chu Hữu Tín
nguồn "www.khoahoc.net"--------------------------------------------------------------------------------
Thuật nắn xương được thiết lập bởi Bác sĩ Andrew Taylor Still, Bác sĩ Y khoa năm 1874. Bác sĩ Still là một bác sĩ và một mục sư. Ông điều trị bệnh nhân của ông bằng cách dùng môn học y khoa sẵn có vào lúc đó và trở nên nản lòng với tính có độc tố nghiêm trọng gắn với các phương pháp điều trị trên. Cuối cùng ông đã thúc đẩy việc tìm ra một phương pháp khác khi ba trong những con trai của ông đã chết vì viêm màng não cột sống khi ông khi ông không nhận được sự hỗ trợ nào và không thể cho họ bất kể phương pháp trị liệu.
Ông bắt đầu khảo nghiệm và tìm thấy con đường trở lại phòng thí nghiệm giải phẫu và bắt tay làm việc học tập mọi điều ông có thể thực hiện về cơ thể học và chức năng của nó. Điều này, ngoai tri thức về y học của ông, liên kết trong việc tạo ra một môn học thực nghiệm độc nhất đã phát triển thành một trong những phương pháp chẩn đoán có hiệu quả nhất hiện nay và điều trị bệnh nhân. Ông bắt đầu việc điều trị mọi kiểu tính chất bất thường bằng cách dùng đôi tay của ông như bệnh bạch hầu, bệnh dịch tả, bệnh viêm nhiễm dễ cảm ứng đường ruột, những vấn đề thuộc bộ cơ xương, bệnh do vi rút và vi khuẩn kết hợp, kể ra vài bệnh và việc điều trị bệnh thành công vượt mức vào một thời điểm khi thuốc kháng sinh chưa được khám phá và việc điều trị y học cổ xưa.
Thuật nắn xương được công nhận
Thuật nắn xương đã phát triển một cách có ý nghĩa hiện nay trong đó có 20 trường y khoa dạy thuật nắn xương ở Hoa Kỳ và vài trường ở nước ngoài gồm có châu Âu, Úc châu và Tân Tây Lan, Nam Mỹ và Canada. Chỉ ở Hoa kỳ có bác sĩ chuyên môn nắn xương, có quyền hành nghề y khoa như bác sĩ y khoa và bác sĩ nha khoa. Thật vậy, thuật nắn xương là một môn học y khoa hoàn toàn giảng dạy cho sinh viên thêm vào kỷ luật thực nghiệm độc nhất trong trường học của chúng ta. Kỷ luật thực nghiệm độc nhất này là trung tâm của điều gì thuật nắn xương cổ truyền có liên quan.
Nói chung, bạn sẽ thấy trình bày vài môn học phát sinh từ một trong những sinh viên của bác sĩ Still, William Garner Sutherland, đã gọi, thuật nắn xương sọ hoặc thuật nắn xương trong lĩnh vực sọ. Công trình của bác sĩ về khái niệm sọ đã tiến hóa thành phương pháp điều trị tập trung vào toàn bệnh nhân và đây là sự tiến hóa tổng hợp vào tặng phẩm của bác sĩ Still tặng cho chúng tôi. Sẽ được trình bày thêm sau này.
Phương pháp điều trị trí nhớ, cơ thể và tinh thần
Nói chung, thuật nắn xương được đặt tên bởi bác sĩ Still như là một biện pháp điều trị bệnh nhân có ý nghĩa hoàn toàn nhìn vào vào mặt của sức khỏe: trí nhớ, cơ thể và tinh thần. Đây là một môn học y khoa tập trung vào việc tìm ra nguyên nhân của vấn đề nhiều hơn là điều trị các triệu chứng. Mô hình (MD) chữa trị đối chứng tiêu chuẩn được tập trung vào các triệu chứng và điều trị các triệu chứng đó để loại trừ chúng. Cùng một mô hình đã thấy trong lãnh vực nha khoa (D.D.S hoặc D.M.D.) trong đó bác sĩ nha khoa tập trung vào vấn đề nhiều hơn là quá trình gây ra vấn đề.
Thuật nắn xương truyền thống hiểu rõ là cơ thể có một khả năng trong tự chữa vào họat động trong việc nhận thức, về mặt lên mặt dạy đời và về mặt nhận thức, làm cách nào cơ thể hoạt động không những trong tình trạng bình thường, mà còn trong tình trạng bệnh để đồng bộ hóa với sức khỏe và cho phép bệnh nhân tự chữa bệnh. Khả năng đồng bộ hóa này cơ bản không trên bệnh, mà đúng ra về việc làm cách nào người ta hoạt động trong quan hệ với nó. Sự hiện diện của bệnh trong cuộc sống của một người có thể chie là quan trọng như sức khỏe, khi tiến triển bệnh có thể hành động như một điểm tựa hỗ trợ bệnh nhân tiến hóa. Điều này là một khái niệm rất quan trọng kho phương pháp trong đó một bác sĩ tiếp cận với một bệnh nhân có thể có một ảnh hưởng to lớn về kết quả của việc chăm sóc họ.
Thực hành dựa trên mô hình y tế
Điều này là tại sao chúng ta phải nhận thức là thuật nắn xương bắt nguồn từ y học và nhìn về việc hội nhập mọi môn học y khoa lại với nhau và tập trung vào sức khỏe nhiều hơn so với bệnh. Điều này có nghĩa là một môn học luân phiên cho phép bác sĩ hành nghề y khoa nhưng đồng thời hội nhập các nguyên tắc truyền thống chăm sóc hoàn toàn bằng cách dùng một phương pháp tiếp cận thực nghiệm. Điều này gồm có việc hội nhập và việc ứng dụng dinh dưỡng, đào tạo nhận thức, nghệ thuật sống và điều dưỡng luyện tập và việc hội nhập những môn học khác để hỗ trợ bệnh nhân.
Đa phần những bác sĩ về xương ở Hoa Kỳ thực hành không khác so với bác sĩ y khoa và không sử dụng những mặt cổ truyền của thuật nắn xương như AT Still đã trình bày với chúng tôi. Vì thế, môn học thực nghiệm độc nhất không được hội nhập trong phương pháp thực hành của họ.
Các bác sĩ chữa đối chứng và bác sĩ nha khoa là những môn học y khoa khác ở Hoa Kỳ được giảng dạy thường xuyên về khái niệm thuật nắn xương. Sự giáo dục của họ là một mặt căn bản trong việc thực hành thuật nắn xương truyền thống khi cần để đưa đến việc nhận thức nó. Ngoài ra, chúng còn được trình bày với bệnh nhân cần điều trị hoàn toàn và phải nhận thức là cơ thể hành động như một đơn vị và không thể tách riếng thành từng phần.
Các vấn đề về miệng có thể có ảnh hưởng ngược trên phần còn lại của bệnh nhân từ đó tạo ra và góp phần vào vài tiến triển bệnh. Tương tự, phép chữa đối chứng mà đào tạo y khoa giống với thuật nắn xương trừ trường hợp đào tạo thực nghiệm không phải là một phần chương trình giảng dạy, cần trong việc điều trị bệnh nhân; như một toàn thể. Chắc chắn, một chuyên gia có thể là cần trong việc chẩn đoán và ngay cả điều trị một bệnh nhân, và giải phẫu có thể được chỉ dấu nhưng chúng ta phải không bao giờ bỏ quên điều gì đang xảy ra như một toàn thể. Ngay cả khi bác sĩ không dùng điều trị thực nghiệm, ta vẫn có thể thực hành toàn bộ. Nhiều bài báo sẽ được viết trong tương lai liên quan đến đề tài này trong việc hỗ trợ chúng ta mọi người nhận thức về tầm quan trọng của toàn thể và làm cách nào chúng ta làm việc với nó.
Thuật nắng xương sọ
Thuật nắn xương sọ, như đã trình bày trên được xác định bởi Bác sĩ William Garner Sutherland. Đây là phương pháp cơ bản tôi đã dùng trong thực hành. Tôi liên hệ điều này với "thuật nắn xương truyền thống" khi điều này là một phương pháp điều trị tập trung vào bệnh nhân hoàn toàn, không phải chỉ vào đầu, và được dùng trong hội nhập mọi mặt của sức khỏe, và phòng ngừa trong phương pháp thực hành của tôi.
Các giai đoạn bắt đầu
Bác sĩ Sutherland lần đầu tiên tiếp xúc với khái niệm về sọ trong năm 1898 ở tuổi 25 và lần đầu tiên được giới thiệu nó với các đồng nghiệp 31 năm sau năm 1929. Kinh nghiệm đầu tiên của ông với bệnh thô sơ và cơ học nhưng trên 25 năm kinh nghiệm và khai thác, nó tiến hóa thành một khoa học nhận thức tốt. Việc sắp xếp tay của ông lúc đầu rất nặng nề, trực tiếp và cơ học và thường đi kèm bởi băng bó được kết chặt với đầu của một bệnh nhân và để lại đó trong vài ngày. Điều này là, trong một thời gian nhiều năm, được thay bằng cách di chuyển xa từ một mô hình cơ học sang một mô hình khác rất giống nước và gián tiếp trong đó đôi tay của ông rất nhẹ và mềm. Mô hình sau này bắt đầu làm lo mờ mô hình cơ học không những sắp xếp đôi tay của ông, mà còn trong những kết quả lâm sàng của nó khi điều này ưu thế xa và không xâm lấn bệnh nhận.
Một nhịp nhngf trong sọ cũng được thảo luận và trong nhiều năm trở thành một đề tài nóng bởi nhiều nhiều người nắn xương và người trị liệu bên ngoài lãnh vực y khoa. Sự nhịp nhàng được nhận diện một cách cổ điển như di chuyển với một tỷ lệ 8/14 chu kỳ mỗi phút và đã được dùng như một công cụ chẩn đoán và chữa trị bởi nhiều trong chế độ điều trị của chúng. Tuy nhiên, trong thuật nắn xương truyền thống, sự nhịp nhàng này không quan trọng và không thấy có bất kể ý nghĩa trị liệu nào khi nó đến từ hệ thống thần kinh trung tâm (CNS).
Một trong những quà tặng quí giá nhất chính là chúng ta có thể cho loài người là học tập làm cách nào mang CNS vào tình trạng cân bằng, một điều kiện tiên quyết trong trị liệu. Nơi nào phương pháp trị liệu bắt đầu, là nền tảng trị liệu có hiệu quả, và một nguyên tắc cơ bản quan trọng trong thuật nắn xương truyền thống. Nguyên tắc này của tình trạng cân bằng CNS là áp dụng chung.
Sự nhịp nhàng của sọ thường được dùng bởi những bác sĩ thực hiện một phương pháp trị liệu gọi là "điều trị xương cùng sọ" thường nhầm lẫn với thuật nắn xương sọ. Hai phương pháp điều trị không có liên kết và không đồng nhất về bất kể mặt nào chút nào cả. Thuật nắn xương sọ không phải là một phương pháp điều trị và có nền tảng như một khoa học y khoa. Phương pháp điều trị không luôn độc quyền cho đầu hoặc xương cùng, nhưng một phương pháp điều trị hoàn toàn có thể, và sẽ có một ảnh hưởng trên toàn con người. Khóa học về lãnh vực này ở Hoa Kỳ chỉ bị giới hạn ở những bác sĩ y khoa D.O.'s và M.D.'s, bác sĩ nha khoa, và sinh viên y khoa trong đào tạo.
Cũng có những phương pháp khác của phương pháp điều trị thực nghiệm nắn xương là việc dùng thao tác cột sống và mô mềm cũng như những phương pháp khác mà, khi dùng một cách thích hợp, còn là rất hiệu quả. Tầm quan trọng của bác sĩ trong việc dùng những nguyên tắc này liên uan đến toàn bệnh nhân, không dành riêng cho những triệu chứng.
Một phương pháp tiếp cận giản đơn trong điều trị bệnh
Tóm lại, thuất nắn xương là một khoa học y khoa được đặt tên bởi Bác sĩ Andrew Taylor Still. Phương pháp được tạo ra như một khoa học hoàn toàn tập trung vào việc tìm ra nguyên nhân của bệnh và làm việc với bệnh liên quan đến sức khỏe. Sức khỏe, trong mọi tình trạng của bệnh, luôn hiện diên và một cách giản đơn, người ta có thể được đào tạo làm việc với nó không điều kiện. Việc sắp dặt tay được trình bày theo một phương pháp rất nhẹ nhàng và được giảng dạy nghe nhiều hơn thực hiện.
Một nhận thức về giải phẫu học, sinh lý học, phôi học và y khoa lâm sàng là một điều kiện tiên quyết trong nhận thức về việc áp dụng nó. Điều này không được xem như một phương pháp, đúng hơn là một phương pháp tiếp cận giản đơn với một bệnh nhân dựa trên sức khỏe. Phương pháp áp dụng của nó không tự động và thật vậy hai người có một chẩn đoán giống nhau và những triệu chứng giống nhau sẽ một cách không thay đổi được tiếp cận khác nhau. Một bệnh nhân nhận kiểu điều trị này thường là rất ngạc nhiên, khi không xuất hiện bác sĩ làm nhiều nhưng điều này có thể không xa hơn sự thật. Đa phần bệnh nhân sẽ buồn ngủ và thức giấc có cảm giác khác hẳn.
Điều nay không có kết hợp với bất kể thuật ngữ thời đại mới và phải không nhầm lẫn với bất kể môn học khác. Những bài báo trong tương lai sẽ được viết tập trung vào vài điều kiện và làm cách nào chúng ta tiếp cận với chúng. Mong đợi rằng, bài báo này cũng tốt như những bài báo khác sẽ không chỉ hỗ trợ trong việc mở cửa cho việc nhận thức tốt nhiều hơn về thuật nắn xương, mà còn làm cách nào chúng ta cần làm việc với toàn thể và điều trị bệnh từ vị trí sức khỏe.
Ý kiến của Bác sĩ Garcia
Thuật nắn xương truyền thống là một phương pháp tiếp cận y khoa dựa trên y khoa hoàn toàn và thực nghiệm. Dược phẩm và giải phẫu riêng đã chứng tỏ tạo ra ảnh hưởng phụ và tử vong nhiều hơn là cần thiết. Con người thông minh nhiều hơn dược phẩm và y học thường thức có thể nhận thức. Phương pháp thực hành của chúng ta nỗ lực trong việc hỗ trợ chữa bệnh bởi điều trị miệng và cơ thể như một toàn thể không phải là những bộ phận riêng biệt.