|
Post by NHAKHOA on Nov 28, 2006 15:49:31 GMT -5
Những thực phẩm giúp bạn sống lạc quan 20.11.2006 Trà thảo dược giúp bạn thư giãn Các chuyên gia dinh dưỡng chỉ ra những thực phẩm giúp giảm stress, đem lại sự lạc quan trong cuộc sống. Phó Viện trưởng Viện Dinh dưỡng Quốc gia, TS Nguyễn Thị Lâm, khuyên bạn nên ăn những thực phẩm này một cách thường xuyên, điều độ. Ăn chuối “hạ hỏa” Chuối là quả ngon, rẻ và bổ (cung cấp nhiều vitamin và chất khoáng). Chuối được là loại quả có tác dụng “hạ hỏa” đối với người nóng tính do nó điều chỉnh mức độ đường trong máu góp phần mang lại tâm trạng tốt. Chuối có khả năng làm dịu sự căng thẳng bằng cách cung cấp vitamin B - loại vitamin rất cần thiết có khả năng kích hoạt một số các enzym chức năng quan trọng trong hệ thần kinh. Trong chuối có nhiều kali giúp trí não hoạt động nhạy bén và linh hoạt. Kali còn là chất khoáng giúp bình ổn chứng ợ nóng, đưa oxy lên não và điều chỉnh lượng nước trong cơ thể. Lượng muối trong chuối thấp nên chuối là loại quả giúp huyết áp ở trạng thái ổn định. Chuối giàu chất xơ, vì thế có tác dụng nhuận tràng, tránh táo bón. Chuối có nhiều chất sắt giúp giảm bệnh thiếu máu bằng cách kích thích sản sinh hemoglobin. Chuối giúp bình ổn dạ dày và giữ lượng đường trong máu ổn định dưới tác dụng của mật ong. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, ăn chuối đều hàng ngày giảm 50% nguy cơ bị đột qụy. Thư giãn với trà thảo dược Hoa lạc tiên, hoa cúc và bạc hà đều là những thảo dược giúp ích cho giấc ngủ của bạn. Trà thảo dược có thể loại giảm stress, trị chứng mất ngủ và căng thẳng thần kinh. Những người uống trà đen 4 lần/ngày trong vòng 6 tuần có tỉ lệ hormone cortisol gây stress trong cơ thể thấp hơn nhóm không uống trà. Mặc dù trà không có tác dụng ngăn chặn stress nhưng lại có hiệu quả rõ rệt trong việc giúp hồi phục, tức đưa lượng cortisol mau chóng quay trở lại mức độ bình thường. Ngủ ngon nhờ sữa Hãy uống một cốc sữa ấm trước khi đi ngủ khoảng một giờ rưỡi. Trong sữa có chứa trytophan - loại amino axit cần thiết cho cơ thể. Ngoài sữa ra thì trong thịt gà, cá ngừ và bơ đậu phộng cũng có chứa tryptophan. Tươi tỉnh khi thức giấc với ngũ cốc Ngũ cốc, đặc biệt là kê có chứa nhiều phốt pho, magiê, sắt và vitamin A. Phốt pho có trong kê sẽ thổi bùng sự tỉnh táo và tăng cường thêm sinh lực cho một ngày mới. Bồi bổ não bằng cá hồi Cá hồi chứa một lượng axit béo omega -3 cần thiết cho hoạt động của não. Nếu ăn thường xuyên, não sẽ được bồi bổ và có thể tránh được stress cũng như những bực dọc vô cớ. Một viên dầu cá mỗi ngày cũng có tác dụng bồi bổ cho não. Stress sẽ sản sinh ra andrenaline - một chất gây hồi hộp và làm tăng nhịp tim. Đồng thời hormone cortisol do stress sản sinh sẽ vô hiệu hoá sự đề kháng của cơ thể cũng như làm tiêu hao lượng canxi và protein Không nên ăn nhiều đường tinh chế, đồ ăn nhanh hay thực phẩm chế biến sẵn vì những thực phẩm này có khả năng làm gia tăng tình trạng căng thẳng, mệt mỏi do hấp thu các năng lượng và chất dinh dưỡng dự trữ trong cơ thể, hoặc sản sinh ra các hormone gây stress, làm cho hệ thần kinh bị kích thích. (Theo Tiền Phong) Uống nước trà nóng có thể tăng nguy cơ ung thư họng Monday, April 06, 2009 Hưng Thuận sưu tầm Theo ScienceDaily (2009) - Một nghiên cứu mới, công bố trên tạp chí y học Anh quốc (British Medical Journal) cho biết: mọi người nên chờ một vài phút trước khi uống một cốc nước trà mới pha từ nước đun sôi, lý do trong nghiên cứu cho biết khi uống trà rất nóng cao hơn 70 độ C có thể làm tăng nguy cơ ung thư thực quản, là nơi dẫn thức ăn từ họng xuống dạ dày. Ðể đưa ra két luận này, công trình nghiên cứu đã được điều tra khoảng 50000 cư dân ở miền Bắc Iran, nơi có số lượng lớn người dân hâm mộ uống trà thật nóng hàng ngày. Kết quả được so sánh với nhóm người uống nước ấm có nhiệt độ ít hơn 65 độ C. Với nhóm uống trà nóng có nhiệt độ từ 65-69 độ C số người ung thư tăng hai lần nhưng khi uống trà rất nóng hơn 70 độ C thì tỷ lệ mang căn bệnh nguy hại này tăng cao đến tám lần. Gần như tất cả các người tham gia đều uống trà đen thường xuyên và tiêu thụ trung bình trên một lít mỗi ngày. Những nghiên cứu trước đây từ Vương Quốc Anh cũng đã thông báo uống nước nóng có độ nóng trung bình từ 56 đến 60 độ C là tốt cho cơ thể. Ung thư thực quản đã cướp đi hơn 500000 người dân trên toàn thế giới hàng năm. Ở Âu Châu và Hoa Kỳ dạng ung thư này thường chẩn đoán gây nên bởi thuốc lá và rượu và là loại bệnh phổ biến ở nam giới nhiều hơn so với phụ nữ, nhưng uống đồ uống rất nóng cũng là một nguy cơ gây bệnh cần phải chú ý. Chất đạm của đậu hòa lan có thể ngừa được bệnh cao máu, bệnh thận Theo ScienceDaily (2009) - Nghiên cứu của các khoa học gia Canada trình bày tại Hội Hóa Học Hoa Kỳ ngày 22 tháng 3 vừa qua tổ chức tại Salt Lake City, UT cho biết một loại protein được tìm thấy trong trái đậu hòa lan là loại thực phẩm có thể giúp cơ thể chống lại bệnh cao máu và làm giảm các triệu chứng bệnh thận mãn tính, một căn bệnh đang đe dọa và ảnh hưởng đến hàng triệu người trên toàn thế giới. Ðậu hòa lan từ lâu đã được công nhận là thực phẩm có nguồn đạm dinh dưỡng tuyệt vời, một lượng chất xơ tốt cho tiêu hóa, có đủ các vitamin, ít chất béo và không cholesterol. Cao máu là một yếu tố rủi ro dẫn tới bệnh thận mãn tính, một loại bệnh ảnh hưởng ngày càng tăng của người dân ở Hoa Kỳ và các quốc gia khác. Ước tính cho thấy 13 phần trăm người dân Hoa kỳ - khoảng 26 triệu người - có bệnh thận mãn tính. Bệnh thận mãn tính hiện nay cũng khó khăn để chữa trị, và có thể tiến đến giai đoạn cuối bệnh thận đòi hỏi phải tách hoặc ghép thận. Nghiên cứu khẳng định những người có bệnh cao máu, khi ăn đậu hòa lan thì nguồn đạm của đậu có khả năng trì hoãn hoặc ngăn chặn các tác nhân gây bệnh thận, giúp người bệnh duy trì mức độ huyết áp bình thường. Nghiên cứu này cũng được các khoa học gia của trường đại học Manitoba, Canada tham gia.
|
|
|
Post by NHAKHOA on Nov 28, 2006 15:57:37 GMT -5
Hành tỏi ngừa ung thư: Đã được chứng minh 23.11.2006 Nếu mùi của nó làm bạn khó chịu, hãy ngậm một chút bạc hà. Đó là lời khuyên của các nhà nghiên cứu Italia bởi họ khẳng định rằng việc ăn nhiều hành và tỏi sẽ giúp ngăn ngừa ung thư hiệu quả. Các nhà nghiên cứu Italia đã phát hiện ra rằng những người có chế độ ăn giàu hành tỏi và các loại thực vật họ hành tỏi ít bị ung thư hơn những người ghét chúng. Nhà nghiên cứu Carlotta Galeone, Viện nghiên cứu Ricerche Farmocologiche "Mario Negri" (Milan) và các cộng sự cho biết những lợi ích từ hành, tỏi đã được biết đến từ nhiều thế kỷ trước nhưng rất ít những nghiên cứu khoa học chứng minh được lợi ích thực sự của chúng. Trong nghiên cứu của mình, các nhà nghiên cứu đã lấy dữ liệu nghiên cứu về ung thư của một số nhà khoa học Italia và Thụy sĩ và xem xét nó trong mối quan hệ giữa các loại hành tỏi với các bệnh ung thư liên quan tới nhiều bộ phận của cơ thể như miệng, thanh quản, thực quản, ruột kết, ngực, buồng trứng và thận. Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ cần ăn hành ở mức trung bình (5 -10lần/tuần), con người đã có thể giảm nguy cơ bị ung thư ruột, ung thư thanh quản và buồng trứng. Hiệu quả bảo vệ sẽ tăng lên khi ăn nhiều hành hơn. Những người ăn nhiều hành nhất (22lần/tuần) cũng có nguy cơ bị ung thư miệng và thực quản ít hơn hẳn so với những người ăn ít nhất. Việc ăn lượng tỏi cũng cho kết quả tương tự: những người bị ung thư thường ít ăn tỏi hơn. Những người ăn nhiều tỏi cũng ít có nguy cơ bị ung thư vú và ung thư tiền liệt tuyến nhờ khả năng kết hợp với các hormone trong cơ thể cũng như tái tạo tế bào, các nhà nghiên cứu cho biết. Các nhà nghiên cứu cũng cho biết việc ăn hành và tỏi có thể xem là liệu pháp đơn giản giú tăng cường sức khỏe và hỗ trợ cho chế độ ăn nhiều rau quả, sử dụng thảo dược để chống lại căn bệnh ung thư. (Theo Bác Sĩ Gia Đình) Ăn thịt đỏ và thịt chế biến làm tăng nguy cơ tử vong Theo ScienceDaily (2009) - Theo số liệu thống kê của Viện Ung Thư Quốc Gia, Rockville, Maryland gần đây cho biết: tỷ lệ những người ăn nhiều thịt đỏ và thịt chế biến sẵn với thời gian liên tục hơn 10 năm cho thấy dễ dẫn tới nguy cơ tử vong, nguyên nhân của tử vong phần lớn là do các bệnh ung thư hoặc bệnh tim mạch. Ngược lại, ăn nhiều thịt trắng hơn cho thấy giảm thiểu đáng kể nguy hại này. Kết quả này được Viện Ung thư quốc gia, Rockville điều tra từ năm 1995. Nhằm khảo sát và đánh giá sự kết hợp giữa ăn thịt và các nguy cơ tử vong. Hơn 500,000 người là thành viên của chương trình nghiên cứu ăn kiêng và sức khỏe (ở độ tuổi từ 50 đến 71) được theo dõi liên tục sau 10 năm thông qua số liệu báo tử quốc gia của sở an sinh xã hội. Một số cơ chế của việc ăn thịt khi chế biến dễ dẫn đến tử vong mà đã được biết là khi chế biến thịt ở nhiệt độ cao dễ tạo ra loại tiền chất gây nên bệnh ung thư. Thịt cũng chính là một nguồn chất béo bão hòa chủ yếu, liên quan với ung thư vú và ung thư colorectal. Ngoài ra, ăn ít thịt hơn cũng làm giảm những nguy cơ đối với bệnh tim mạch, bao gồm cả hạ huyết áp và cholesterol. Thịt đỏ phải kể tới là thịt bò, thịt lợn.
|
|
|
Post by NHAKHOA on Nov 28, 2006 16:03:04 GMT -5
Sinh con khi lớn tuổi - Nguy hiểm cả mẹ và con 22.11.2006 Vì nhiều lý do, tỷ lệ bà mẹ sinh con ở tuổi trên 35 ngày càng tăng trong những năm gần đây. Điều này dẫn đến hậu quả là nhiều sản phụ phải đối mặt với những hội chứng nguy hiểm như tiền sản giật, dọa sinh sớm... Đáng lưu ý là tỷ lệ dị tật ở nhóm trẻ sơ sinh “muộn mằn” này cũng tăng cao hơn nhiều so với bình thường... Bác sĩ Nguyễn Viết Tiến - Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương cho biết. Sản phụ lớn tuổi tăng nhanh Theo ông Tiến, trong 3 - 4 năm trở lại đây, do chịu áp lực trong công việc và xã hội, số sản phụ sinh lần đầu ở tuổi trên 30 đã tăng đáng kể. Điều nguy hại đầu tiên là họ thường đối mặt với các triệu chứng nguy hiểm đến tính mạng của cả mẹ và con như tiền sản giật, doạ sinh non... Ngoài ra, phần lớn trong số họ đều rơi vào tình trạng khó sinh và phải nhờ đến các biện pháp hộ sinh do tầng sinh môn còn chắc, sức rặn yếu hơn các sản phụ trẻ hơn nên việc rặn không có hiệu quả cao và phải nhờ đến sự can thiệp bên ngoài của bác sĩ. Phương pháp hộ sinh phổ biến nhất là mổ đẻ. Với cách này, sản phụ sẽ phải chịu một vết thương ở tử cung và buộc phải chờ đợi một thời gian dài nữa mới được phép mang thai lần thứ hai. Tuy nhiên, do đã quá thời kỳ sung mãn trong độ tuổi sinh đẻ nên cơ hội thụ thai của họ cũng giảm đi rất nhiều, chưa kể đến những tai biến có thể gặp với xác xuất lớn khi sinh. Bên cạnh đó sự mệt mỏi trong quá trình thai nghén lần sau của các sản phụ cũng tăng lên đáng kể. Những con số thống kê về sảy thai tăng theo tuổi tác cũng cho thấy, gần 15% phụ nữ bị sảy thai dưới 35 tuổi, tỷ lệ sảy thai tăng lên 20% ở độ tuổi 35 - 37 và tiếp tục cao hơn nữa ở những lứa tuổi lớn hơn. "Phụ nữ có thai ở lứa tuổi trên 30 thường tăng nguy cơ đẻ con bị dị tật và hội chứng đao (Down) cũng tăng lên. Nguyên nhân do tuổi tác làm cho các thể nhiễm sắc ở trứng không tách biệt tốt, chúng dễ kết dính với nhau và khi tạo thành một tổ hợp nhiễm sắc thể nào đó thì có thể dẫn đến hội chứng Down và nhiều bệnh khác do có nhiễm sắc thể thừa"- Ông Tiến cho hay. Những biến chứng dễ gặp khi sinh nở muộn Bác sĩ Lan Hương - Bệnh viện Phụ sản Hà Nội đưa ra lời khuyên: "Sinh sớm hơn hay muộn hơn về mặt lý thuyết đều không thuận lợi về tâm, sinh lý cho cả sản phụ và thai nhi". Với những phụ nữ sinh nở lần thứ nhất khi đã trên 30 tuổi cần lưu ý thường xuyên đi khám thai định kỳ để phát hiện dị tật và những biến chứng có thể gặp phải. Bên cạnh đó nên đề phòng một số chứng bệnh hay gặp phải như: Tiền sản giật: Là bệnh nhiễm độc thai ngén thường gặp, chiếm tỉ lệ 5% - 8% số phụ nữ mang thai và dễ gặp ở thai phụ lớn tuổi. Bệnh có biểu hiện đặc trưng là cao huyết áp, phù mặt, tay và nước tiểu nhiều chất đạm. Dấu hiệu phù mặt, tay của tiền sản giật rất dễ bị nhầm lẫn với hiện tượng phù nề do xuống máu. Tiền sản giật có thể gây biến chứng nghiêm trọng cho người mẹ và thai nhi. Người mẹ có nguy cơ bị tổn thương gan, thận, chảy máu (máu chảy không cầm được hay co giật khi chuyển dạ). Bệnh cũng khiến thai nhi chậm phát triển, thậm chí thai bị chết lưu trong tử cung. Nếu được phát hiện và điều trị sớm có thể dẫn đến biến chứng rau bong non, phù phổi, xuất huyết não, rối loạn tâm thần cho mẹ hoặc tử vong. Bệnh tim: Các thai phụ ở mọi lứa tuổi nên lưu ý đặc biệt trong 4 tháng mang thai cuối cùng. Nếu gặp một số triệu chứng như khó thở, nặng ngực, mệt mỏi, thở dốc... diễn ra thường xuyên cần nghĩ đến khả năng thai phụ có bệnh tim dẫn đến tình trạng thiếu oxy mãn tính khiến thai nhi phát triển không tốt. Nếu tình trạng này kéo dài dễ dẫn đến tình trạng bị sảy thai, sinh non, thai chết lưu. Tiểu đường: Nguy cơ mắc tiểu đường khi mang thai thường hay xảy ra ở những người sống trong gia đình có tiền sử căn bệnh tiểu đường, thai phụ tăng cân quá nhiều (tăng trên 20 cân tính đến tháng cuối) hay trước đó hay sảy thai, sinh non. Với những phụ nữ lớn tuổi khi cóá thai kèm theo những cảnh báo trên cần thường xuyên đến các cơ sở y tế để phát hiện những biến chứng có thể xảy ra. (Theo Bác Sĩ Gia Đình)
|
|
|
Post by NHAKHOA on Nov 28, 2006 16:10:05 GMT -5
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa 06.10.2006 Đối phó với một bệnh tật, chúng ta thường hay đặt câu hỏi “tại sao” (tại sao tôi mắc bệnh này?). Câu hỏi có thể được tiếp cận bằng hai giải thích: một là giải thích căn nguyên trực tiếp, và hai là giải thích bằng thuyết tiến hóa, hay có thể gọi là nguyên nhân sâu xa. Những câu trả lời trực tiếp, thường thấy trong sách giáo khoa và được dạy trong các trường y, mô tả những cơ chế bệnh nguyên, bệnh sinh đưa đến bệnh tật mà khoa học biết được. Những câu trả lời này cần thiết, nhưng chưa đủ. Chúng ta cần biết đến những nguyên nhân sâu xa, những câu trả lời dựa vào lí thuyết tiến hóa của Charles Darwin, mô tả những tiến trình tiến hóa của các cơ phận trong cơ thể cũng như hành vi con người ngày nay. Mục tiêu chủ yếu của y khoa Darwin (hay còn gọi là Darwinian Medicine) là tìm hiểu và giải thích tại sao chúng ta mắc bệnh. Kiến thức y học chủ yếu dựa vào nền tảng của sinh lí học. Sinh lí học chủ yếu quan tâm đến việc phân tích cơ chế hoạt động và những tương tác của các bộ phận trong cơ thể con người. Một khi một bộ phận nào đó trong cơ thể có vấn đề hay bị trục trặc, thông qua sinh lí học, bằng lập luận về cơ chế bệnh học, chúng ta có thể hiểu được tại sao nó xảy ra, và qua cơ chế bệnh sinh đó, chúng ta có thể tìm cách chữa trị. Thành ra, có thể nói rằng chiến lược căn bản của y khoa ngày nay là khảo sát sự tương tác lẫn nhau giữa các thành tố trong một hệ thống vừa mở vừa kín, đó là: môi trường-con người (ngoại sinh và nội sinh) thông qua các đặc tính di truyền, cơ chế sinh lí của cơ thể; và phản ứng của chúng trong quá trình đáp ứng với bệnh tật của cơ thể đó trong mối quan hệ hỗ tương với môi trường xung quanh. Nói nôm na, cách chẩn đoán và điều trị bệnh cũng giống như giới kĩ sư tìm hiểu sự vận hành và cách sửa máy móc cơ khí khi gặp phải sự cố. Nói chung, đây là một chiến lược logic, và trong quá khứ đã thành công rực rỡ trong việc khám phá ra nhiều biện pháp chữa trị hữu hiệu cho nhiều căn bệnh ngặt nghèo. Nhưng dù thành công, chiến lược này không cung cấp cho chúng ta một bức tranh toàn diện về bệnh tật, bởi vì nó chú trọng vào việc chữa trị căn bệnh hơn là chữa trị con người với căn bệnh. Nói cách khác, phương pháp phân tích cơ chế bệnh nguyên bệnh sinh theo trường phái y học Tây phương dường như bỏ quên phần con người trong phương trình bệnh tật. Chúng ta phải đi vượt qua câu hỏi “Cơ phận này vận hành ra sao” để đặt câu hỏi “Tại sao có cơ phận này”. Đứng trên quan điểm tiến hóa, cơ thể con người là một bộ máy mà trong đó các cơ phận được thiết kế tinh vi đến mức tuyệt vời, nhưng lại là những thiết kế dựa vào những thỏa hiệp giữa lợi và hại. Hãy lấy mắt, có khi được ví von là “cửa sổ của linh hồn”, làm một ví dụ. Mắt là một vật thể có thể nói là một kì quan, với giác mạc được cấu trúc bằng những mô sáng trong và được uốn cong cong một độ vừa phải, với mống mắt có chức năng điều chỉnh độ sáng tối và thủy tinh thể đóng vai trò của một cái kính lúp “chăm sóc” tầm xa gần của mắt, và hai cơ phận này làm việc nhịp nhàng với nhau để lượng sáng làm nổi bật tiêu điểm một cách chính xác trên bề mặt của võng mạc. Nhưng dù ngưỡng mộ một kì quan như thế, chúng ta vẫn thấy thiết kế mắt có vài khuyết điểm đáng kể. Khuyết điểm lớn nhất của mắt là cả mạch máu và thần kinh mắt bó chung lại thành một bó và đi vào trực diện qua võng mạc (vì cấu trúc mắt nhỏ mà cần có đặc tính thấu quang cao, cho nên mọi sắp xếp cần phải hợp lý theo tiến hoá), do đó chỉ cần một chèn ép nhỏ thì mù mắt xảy ra chỉ trong giây phút, điển hình là gặp trơng trường hợp viêm động mạch mắt. Điểm thứ hai, chúng ta có thể thấy ở mắt, để nhìn được hình ảnh một cách trung thực và chính xác, mắt của chúng ta cấu trúc hoàn toàn như một cái máy ảnh (hay đúng hơn máy ảnh đã nhại lại tuyệt đối nguyên lý cấu trúc của mắt). Như vậy toàn bộ bộ phận quang học của mắt phải tuyệt đối trong suốt bao gồm giác mạc, dịch kính. Như thế thì mắt không được có vẩn đục, cho nên trong mắt rất ít hệ thống mạch máu hay nói đúng hơn là không có. Mọi việc nuôi dưỡng mắt đều thông qua con đường thẩm thấu. Như thế, chỉ cần ta thiếu nước mắt thôi, mắt chúng ta rơi vào tình trạng nguy hiểm rồi. Cơ thể con người là một công trình với nhiều mâu thuẫn đồng tồn như thế. Nói một cách ví von nó tồn tại như một cặp phạm trù đối lập mà hỗ tương: · Trong khi van tim được cấu trúc cực kì tinh vi, thì chúng ta cũng có cái răng khôn (mọc vào tuổi đã khôn lớn, khoảng 18-20 tuổi, nên gọi là răng khôn), nó chẳng có chức năng gì mấy, mà khi mọc lại gây ra lắm phiền phức đặc biệt trên những người có cung hàm ngắn, khi đó chúng ta đành gọi là “răng khôn mọc dại”. · Các mảng DNA có nhiệm vụ ra chỉ thị cho việc phát triển khoảng 10 tỉ tỉ tế bào để làm nên cơ thể con người, nhưng cũng chính DNA làm cho cơ thể suy đồi và dẫn đến cái chết. · Hệ thống miễn dịch của cơ thể có thể nhận dạng và tiêu diệt hàng triệu loại vi khuẩn và “kẻ thù ngoại bang”, song lắm khi cơ thể chúng ta lại chết vì chính hệ thống miễn dịch của chúng ta, trong các trường hợp sốc phản vệ hay quá mẫn, khi đó cơ thể chúng ta bị rơi vào tình cảnh “quân ta sát hại quân mình”. · Lại lấy ví dụ cũng về mắt: như đã đề cập ở trên, nhãn cầu chúng ta là một bộ phận quang học kín, rất ít có quan hệ với các cơ phận xung quanh. Do dó dù là “con cháu trong nhà” nhưng hệ thống miễn dịch của cơ thể không bao giờ có “số đăng bộ” của các bộ phận nhỏ ở bên trong nhãn cầu cả. Khi bị chấn thương nhãn cầu, nhãn cầu vỡ ra, các chất bên trong này thâm nhập vào mạch máu. Hệ miễn dịch cơ thể lúc này kiểm tra thấy rằng đây là những kẻ “ngoại bang” xâm nhập, do đó hệ miễn dịch trung ương bắt đầu sản xuất ra hàng loạt đội quân đặc nhiệm tấn công những “kẻ ngoại bang” này; và vô hình chung, chúng tấn công luôn bên mắt còn lại, và hậu quả là bệnh nhân bị mù. Trường hợp này trong y khoa gọi là “nhãn viêm đồng cảm”. Nhận ra những mâu thuẫn trên chúng ta cảm thấy như cơ thể con người được thiết kế bởi một nhóm kĩ sư lỗi lạc nhưng thỉnh thoảng lại bị can thiệp bởi những tay phá hoại vụng về. Thế nhưng, những “phi lí” và mâu thuẫn như thế chỉ trở nên hợp lí khi chúng ta chịu khó nhìn vấn đề qua lăng kính của Darwin. Nhà di truyền học danh tiếng Theodosius Dobzhansky từng nói: "Trong sinh học không có cái gì có ý nghĩa cả, nếu chúng ta không đặt nó vào bối cảnh của quá trình tiến hóa." Sinh học là nền tảng của y học, và sinh học tiến hóa (Evolutionary biology) là nền tảng của sinh học; cho nên có thể nói rằng chúng ta cần phải hiểu sinh học tiến hóa để hiểu y học. Tuy nhiên, sinh học tiến hóa chỉ mới được công nhận là một khoa học cơ bản của y học trong vài năm gần đây (từ thập niên 1990s) mà thôi. Việc nghiên cứu các vấn đề y khoa trong bối cảnh quá trình tiến hóa có khi còn được gọi là Darwinian Medicine (Y học Darwin) hay Evolutionary Medicine (Y học tiến hóa). Đại đa số các nghiên cứu y khoa trong thời gian qua nhằm đi tìm nguyên nhân của bệnh tật và tìm thuật chữa trị. Ngược lại, y học tiến hóa đặt câu hỏi tại sao cơ thể con người được thiết kế như hiện nay để chúng ta mắc những bệnh như ung thư, tiểu đường, xơ vữa động mạch, phiền muộn, ho, v.v… Thành ra, y học tiến hóa cung cấp cho chúng ta một viễn cảnh lớn hơn, góc nhìn rộng hơn, nhằm giải thích bổ sung các kết quả của nghiên cứu y học. Chọn lọc tự nhiên Hai cụm từ chủ đạo trong y học tiến hóa là chọn lọc tự nhiên (natural selection) và “tiến hóa”. Chọn lọc tự nhiên thực ra là một nguyên lí (không phải là một lí thuyết) hết sức đơn giản nhưng dễ dẫn đến hiểu lầm. Ngày xưa, khi Charles Darwin đề xuất nguyên lí chọn lọc tự nhiên, ông chắc chắn chưa biết đến gien; ông chỉ quan tâm và dựa vào những khác biệt về đặc điểm của con người. Thành ra, ông phát biểu những ý kiến về chọn lọc tự nhiên dựa vào những thay đổi về đặc điểm con người với thời gian và một vài ý tưởng mơ hồ về “mã số” di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhưng ngày nay chúng ta biết đến gien và DNA cấu trúc của gien. Chúng ta biết rằng con người có khoảng 30.000 đến 35.000 gien, và gien tương tác với môi trường để tạo nên những đặc điểm khác nhau giữa con người. Nguyên lí chọn lọc phát biểu rằng nếu những người với gien A có nhiều con cái hơn những người với gien B, thì về lâu về dài gien A sẽ trở nên phổ biến trong dân số hơn gien B, và gien B sẽ trở nên hiếm thấy trong dân số. Do đó, nói đến chọn lọc tự nhiên là nói đến (a) sự biến thiên về thông tin chứa trong gien làm nên những khác biệt về đặc tính một sinh vật; (b) sự khác biệt về khả năng tái sản sinh của sinh vật, do hệ quả của (c) thay đổi thông tin trong gien qua nhiều thế hệ. Chìa khóa để hiểu chọn lọc tự nhiên là nhận thức rằng sinh vật không thay đổi, nhưng thông tin và gien trong sinh vật thay đổi theo thời gian. Với nhận thức như trên, chúng ta hãy xét qua những giải thích của y học Darwin. Tôi sẽ chia những giải thích này thành 4 nhóm: cơ chế phòng vệ, cạnh tranh với các sinh vật khác, cơ chế thỏa hiệp, và thích ứng với môi trường mới. Tiến hóa của cơ chế phòng vệ Nhiều triệu chứng của bệnh tật (hay ngay cả bệnh tật) là do các tác nhân gây bệnh (pathogens) hay những bất bình thường trong cơ thể gây nên, hay còn gọi là tác nhân ngoại sinh hoặc nội sinh. Nhiễm trùng, bại liệt, bệnh vàng da, hay một cơn tai biến là một vài ví dụ cho phát biểu trên. Nhưng một số biểu hiện khác thì không phải do bất bình thường trong cơ thể mà do các cơ chế phòng vệ gây nên, và các cơ chế này được quá tiến hóa để bảo vệ chúng ta khi phải đương đầu với một mối hiểm nguy. Chẳng hạn như ho, đau đớn, ói mửa, tiêu chảy, mệt mỏi, và lo lắng. Có thể nhiều người trong chúng ta cho rằng đây là những bệnh, nhưng trong thực tế có thể chúng là những cơ chế phòng bệnh! Ho có lẽ là một chứng thông thường nhất mà ai trong chúng ta đều kinh qua. Nhưng tại sao chúng ta ho? Câu trả lời liên quan đến cơ chế phòng vệ của cơ thể. Thật vậy, ho có thể là một cơ chế phòng vệ hữu hiệu nhất, bởi vì nó giúp cho việc tống xuất những độc chất ra ngoài cơ thể. Nhiều nghiên cứu cho thấy những người không có khả năng thải các dị vật trong đường hô hấp và phổi thường bị chết vì viêm phổi. Và điều rõ ràng nhất, trong các trường hợp bị viêm phổi trong giai đoạn cấp tính, nếu bệnh nhân không ho được hoặc dùng thuốc cắt cơn ho, tiến trình bệnh sẽ kéo dài hơn và nhiều trường hợp chết vì ứ đọng đờm giãi gây tắc nghẽn thông khí. Khả năng đau đớn và lo lắng là những “sản phẩm” của quá trình chọn lọc tự nhiên. Nỗi lo lắng và đau đớn là hai “chứng” hay đi đôi với nhau mỗi khi chúng ta kinh qua một sự mất mát lớn (như có người thân trong gia đình qua đời), và do đó chúng thường gắn liền với những cảm nhận tiêu cực. Thế nhưng khả năng chịu đựng đau đớn và lo lắng cũng có lợi ích của nó. Nếu không có lợi, có lẽ chúng ta chẳng bao giờ có khả năng lo lắng hay chịu đựng đau đớn. Đau đớn là một cơ chế phòng vệ. Đau đớn, dù làm cho biết bao chúng ta phải khốn đốn, thực chất là một tín hiệu báo động cho cơ thể biết là các mô và tế bào đang trong tình trạng nguy hiểm hay đang bị tổn thương. Phản ứng đau là một dấu hiệu báo cho bộ não chúng ta biết, và điều khiển lí trí chúng ta phải dừng hoạt động các bộ phận đó lại để cho chúng có thời gian hồi phục. Những người không biết đau đớn thường chết sớm (trước tuổi 30), và không có cơ hội lưu truyền gien cho thế hệ mai sau. Chẳng hạn như những người với chứng rỗng tủy sống (syringoyelia), do hư hỏng dây thần kinh phát đi tín hiệu đau đớn, có thể cầm một tách cà phê cực nóng và uống bình thường, hay có thể để cho điếu thuốc lá cháy dần đến ngón tay mà không hề cảm thấy đau đớn gì cả. Hay nhưng với các bệnh nhân bị phong (leprosy), các dây thần kinh cảm giác (đau, nóng) bị tổn thương, làm cho các chi không còn biết “sợ” là gì, hậu quả dẫn đến các bệnh nhân bị cụt dần các đốt ngón tay ngón chân, do đó mà gọi là phong cùi! Thành ra, ngăn ngừa đau đớn một cách vô ý thức bằng thuốc có thể dẫn đến nhiều hậu quả khó lường.
|
|
|
Post by NHAKHOA on Nov 28, 2006 16:14:13 GMT -5
Sợ hãi cũng là một cơ chế phòng về có lợi ích. Phần đông chúng ta đều cảm thấy sợ hãi trước những sinh vật nguy hiểm như rắn, rết, nhện, hay lo sợ khi đứng trên một tòa nhà cao ngất trời. Tiến hóa và chọn lọc tự nhiên đã làm cho chúng ta phải tìm cách tránh những hiểm nguy này. Bộ não của thỏ được “chương trình hóa” để tránh chó sói, và cũng không ngạc nhiên khi biết bộ não chúng ta cũng có một khả năng tương tự. Nhưng sợ hãi cũng là một quá trình học hỏi qua tiến hóa, và bài học có khi sai, có khi đúng, cho nên chúng ta thỉnh thoảng vẫn phải trả một giá đắt cho sự sợ hãi. Giáo sư tâm lí học Susan Mineka từng tiến hành một nghiên cứu thú vị: khi khỉ được nuôi trong chuồng chúng không hề biết sợ rắn, chúng còn dám bước qua con rắn để kiếm chuối làm thức ăn; nhưng khi chúng được cho xem một video mà trong đó khỉ phản ứng sợ hãi trước con rắn, chúng trở nên sợ rắn kể từ đó và không dám lại gần rắn nữa! Một cơn sốt, không chỉ đơn giản gia tăng tỉ lệ nội tiết, mà còn có công dụng điều chỉnh nhiệt độ cơ thể. Gia tăng nhiệt độ làm cho việc tiêu diệt các tác nhân gây bệnh (pathogens) hay độc tố nhanh chóng và dễ dàng hơn. Và chính nhiệt độ cơ thể tăng là một cơ chế làm thay đổi môi trường sống tối ưu của vi khuẩn, làm cho chúng mau chết. Nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy ngay cả khi thằn lằn (có máu lạnh), khi được cấy vi khuẩn làm cho chúng nhiễm trùng, thường tìm đến các khu vực ấm áp cho đến khi cơ thể chúng tăng vài độ. Nếu ngăn chận những thằn lằn đến những vùng ấm áp, chúng có nguy cơ chết nhanh vì nhiễm trùng. Một nghiên cứu tương tự của Evelyn Satinoff (Đại học Delaware) trên chuột cao tuổi cũng cho thấy một kết quả tương tự: khi chuột bị cho nhiễm trùng, chúng thường tìm đến những nơi có nhiệt độ cao để sống sót. Nhưng nhận thức được những lợi ích của các cơ chế phòng vệ cũng không hẳn hiển nhiên như các trường hợp trên. Nhiều người trong chúng ta thường kinh qua những phản ứng tưởng như vô thưởng vô phạt trước những đau đớn, sốt, tiêu chảy, hay ói mửa. Muốn hiểu những phản ứng này, cần phải phân tích hệ thống chi phối các phản ứng của cơ thể theo lí thuyết nhận dạng tín hiệu (signal-detection theory). Nhiều độc tố lưu chuyển trong cơ thể thường xuất phát từ bao tử. Một sinh vật có thể tống xuất nó một cách hữu hiệu là bằng cách ói mửa, nhưng cũng phải trả một cái giá “dương tính giả”, tức là cơ chế ói mửa được khởi động, nhưng trong cơ thể không có độc tố, và hành vi này tốn mất vài calories năng lượng. Thế nhưng nếu cơ chế phòng vệ không được phát động trong khi trong cơ thể có độc tố thì cái giá phải trả có khi còn đắt hơn nhiều: tử vong. Chọn lọc tự nhiên, do đó, có xu hướng điều chỉnh các cơ chế cực kì bén nhạy theo nguyên lí nhận dạng tín hiệu vừa nói trên. Một hệ thống phòng cháy được xem là đáng tin cậy nếu nó báo động bất cứ lúc nào có khói hay có lửa, nhưng nó cũng có thể cho ra báo động giả (như khói xuất phát từ một lò nướng!) Tương tự, trong cơ thể con người cũng có rất nhiều hệ thống báo động như thế, nhưng có nhiều khi chúng cũng báo động một cách không cần thiết, và chúng ta đôi khi phải khổ sở vì những báo động “giả” này. Nguyên lí này giải thích tại sao việc khống chế các cơ chế phòng vệ thường dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng. Bởi vì phần lớn những phản ứng xuất phát từ những mối đe dọa nhỏ, việc can thiệp vào những cơ chế phòng vệ thường vô hại; chỉ khi nào các cơ chế phòng vệ lớn bị khống chế thì hệ quả mới nghiêm trọng. Ở đây ta hiểu nôm na, là sự tiến hoá của các cơ phận của cơ thể cũng tuân theo một nguyên tắc “thà đánh nhầm còn hơn bỏ sót!”
Xung đột với các sinh vật khác Một phần lớn bệnh tật là hệ quả của sự cạnh tranh sinh tồn giữa các sinh vật. Một ví dụ hiển nhiên nhất là cạnh tranh giữa con người và vi khuẩn và những tác nhân gây bệnh. Có thể lấy sự cạnh tranh giữa thỏ và chó sói để minh họa cho ý tưởng này. Nếu có một gien (hay đột biến gien) làm cho chó sói chạy nhanh hơn các thú vật khác, chó sói sẽ bắt thỏ dễ dàng, và gien này sẽ trở nên phổ biến hơn trong các thế hệ sau. Và đối với thỏ, hậu quả của hiện tượng này là càng ngày càng có ít thỏ sống sót, và những thỏ sống sót cũng ở trong tình trạng nguy hiểm. Chỉ có những chú thỏ chạy thật nhanh mới sống sót lâu dài, và chọn lọc tự nhiên sẽ làm tăng gien làm cho thỏ chạy nhanh hơn. Ngay trong loài thỏ, thỏ rừng (hare) có độ tinh quái và tốc độ chay nhanh hơn gấp nhiều lần so với thỏ nhà khù khờ. Tương tự trong con người, chọn lọc tự nhiên không thể cung cấp cho chúng ta một cơ chế phòng vệ toàn năng chống lại tất cả những độc tố và tác nhân gây bệnh, bởi vì những độc tố và tác nhân gây bệnh này thường tiến hóa nhanh hơn cơ thể con người! Chẳng hạn như vi khuẩn E. coli, với tỉ lệ tái sản sinh cực nhanh (một ngày tiến hóa của chúng bằng thời gian tiến hóa của con người khoảng 1000 năm), và vì thế chúng có thừa thời gian để tồn tại và tấn công vào con người, trong khi đó, hệ thống phòng vệ của cơ thể, dù là tự nhiên (nội lực) hay do sử dụng thuốc, không có đủ thời gian để đối phó với những kẻ thù mới. Chính vì thế mà cho đến ngày nay, giới khoa học gia còn vẫn đang phải bó tay với tình trạng kháng thuốc rất nhanh của vi khuẩn đối với bất kỳ một thế hệ thuốc mới nào ra đời. Hay cho đến nay, chưa ai biết nếu ngăn chận chứng sổ mũi bằng thuốc có hiệu quả làm ngắn thời gian bệnh tật hay không? Các loại thuốc chống sổ mũi hoàn toàn không có tác dụng chữa bệnh mà nó chỉ làm cho giảm tiết dịch của tế bào mà thôi, trong khi đó lợi bất cập hại. Sổ mũi chính là cơ chế phòng vệ của cơ thể, nước mũi tiết ra là để tẩy rửa vi trùng; rồi chúng ta phải hắt xì hơi để tống xuất mầm bệnh ra ngoài. Trong khi đó dùng thuốc chống chảy mũi, chống hắt xì hơi, là chúng ta giam hãm mầm bệnh lại trong cơ thể mình, tiến trình bệnh lý còn có nguy cơ kéo dài hơn nhiều. Nhiễm trùng là hệ quả của sự cạnh tranh vì sinh tồn giữa hai sinh vật: giữa kí sinh vật (vi khuẩn) và kí chủ (tức cơ thể của chúng ta mà vi khuẩn sống nhờ). Con người nói chung đã chinh phục nhiều tác nhân gây bệnh với những thuốc như thuốc kháng sinh và vắc-xin. Chiến thắng của con người tương đối nhanh và có vẻ như hoàn toàn, như lời tuyên bố đầy tự tin của Bộ trưởng y tế Mĩ, William H. Stewart, vào năm 1969: "Bây giờ chúng ta có thể nói rằng bệnh truyền nhiễm đã được khống chế hoàn toàn. Đã đến lúc chúng ta đóng sổ căn bệnh này." Thế nhưng kẻ thù, và với sức mạnh của chọn lọc tự nhiên, đã làm cho lời tuyên bố đó trở thành khôi hài! Thực tế phũ phàng là các tác nhân gây bệnh có khả năng thích nghi với bất cứ hóa chất nào mà con người dùng để tiêu diệt chúng. Một nhà khoa học nói một cách chua chát: "Cuộc chiến đã kết thúc, nhưng kẻ thắng trận là kẻ thù của chúng ta." Hiện tượng đề kháng thuốc kháng sinh là một minh chứng cổ điển cho sức mạnh của chọn lọc tự nhiên. Vi khuẩn có những gien giúp cho chúng sinh sôi nẩy nở, mặc cho sự hiện diện của thuốc kháng sinh chúng tái sản sinh rất nhanh, và do đó các gien có chức năng đề kháng thuốc kháng sinh có cơ hội bành trướng hoạt động khắp nơi. Tiến sĩ Joshua Lederberg (Rockefeller University, giải Nobel) từng làm nghiên cứu cho thấy kí sinh trùng có thể chuyền từ kí sinh chủ này sang kí sinh chủ khác, thậm chí còn phát sinh thêm một vài mảng DNA nhiễm trùng. Ngày nay, một số vi khuẩn gây bệnh lao ở New York có khả năng đề kháng chống lại tất cả ba nhóm điều trị bằng thuốc kháng sinh; thời gian sống sót của các bệnh nhân mang những vi khuẩn này không lâu hơn so với thời gian mà bệnh nhân TB sống sót vào một thế kỉ trước. Nhiều người, kể cả giới thầy thuốc và khoa học gia, vẫn tin rằng tác nhân gây bệnh trở nên “hiền lành” hơn sau khi chúng sống chung với kí sinh chủ một thời gian dài. Thoạt đầu mới nghe qua thì thuyết này có vẻ có lí. Một sinh vật có khả năng giết chết kí chủ một cách nhanh chóng khó mà tìm một kí chủ mới để tồn tại; thành ra, chọn lọc tự nhiên có vẻ “tử tế” với những tác nhân gây bệnh ôn hòa. Chẳng hạn như bệnh giang mai, một bệnh cực kì độc hại khi lần đầu lan đến Âu châu, sau vài thế kỉ tồn tại, bệnh này trở nên “lành” hơn. Mức độ độc hại của tác nhân gây bệnh là một câu chuyện đời, có lúc thăng trầm, tùy thuộc vào lựa chọn nào có lợi cho gien của chúng. Bởi vì các tác nhân gây bệnh (như vi khuẩn) truyền từ bệnh nhân này sang bệnh nhân khác, và nếu mức độ độc hại thấp thì chúng có thể đem lại lợi ích, bởi vì chúng “cho phép” kí chủ (bệnh nhân) mạnh khỏe để tiếp xúc với nhiều kí sinh vật khác, và do đó chúng sẽ có thời gian và cơ hội tồn tại lâu hơn. Nhưng đối với vài bệnh, như sốt rét chẳng hạn, vi khuẩn cũng có thể truyền từ bệnh nhân này sang bệnh nhân khác, nhưng chỉ trong những bệnh nhân suy kiệt, mất gần hết năng lực. Đối với các tác nhân gây bệnh như thế, chúng thường dựa vào những “sinh vật trung gian” (như muỗi chẳng hạn), và một mức độ độc hại cao có thể đem lại lợi ích trong một tình huống nào đó. Nguyên lí này có liên quan đến việc kiểm soát và khống chế bệnh truyền nhiễm trong các bệnh viện, nơi mà bàn tay nhân viên y tế có thể là những trung gian dẫn đến việc sản sinh ra những loại vi khuẩn nguy hiểm. Với trường hợp bệnh dịch tả, nguồn nước công cộng đóng một vai trò của con muỗi. Khi nước uống và tắm rửa bị nhiễm do các chất thải và phóng uế từ bệnh nhân bị liệt không đi đứng được, chọn lọc tự nhiên có xu hướng tăng cường độ độc hại, bởi vì càng nhiều trường hợp tiêu chảy càng nâng cao khả năng bành trướng của kí sinh vật ngay cả khi bệnh nhân bị chết nhanh chóng. Nhưng khi tình hình vệ sinh cải thiện, chọn lọc tự nhiên có xu hướng chống lại những vi khuẩn gây bệnh tiêu chảy (như phẩy khuẩn tả) để ưu tiên cho sự tồn tại của loài vi khuẩn yếu hơn như vi khuẩn El Tor. Trong điều kiện này, một khi kí chủ bị chết cũng có nghĩa là vi khuẩn chết theo. Nhưng một kí chủ bệnh nhẹ hơn và còn năng động hơn, thì vi khuẩn có cường độ độc hại thấp và có thêm cơ hội lây truyền sang nhiều ki sinh chủ khác và sống lâu hơn. Một ví dụ khác tương đối hiển nhiên hơn là một khi tình hình vệ sinh trở nên tốt sẽ làm cho vi khuẩn độc hại như trực khuẩn Lỵ dòng flexerie bị loại khỏi môi trường và thay vào đó là một vi khuẩn “hiền lành” hơn là trực khuẩn Lỵ dòng sonnei. Nhận thức được những tình huống tế nhị như thế có thể giúp ích cho việc hoạch định chính sách y tế công cộng. Dựa vào lí thuyết tiến hóa chúng ta có thể tiên đoán rằng dùng kim chích sạch và khuyến khích an toàn sex có thể cứu sống nhiều nạn nhân nhiễm HIV nhiều hơn là dùng thuốc để tiêu diệt HIV. Nếu hành vi con người tự nó có thể ngăn ngừa (hay giảm thiểu tỉ lệ) truyền nhiễm HIV, thì những chi vi khuẩn không giết chết “chủ nhà” của chúng (tức bệnh nhân) có khả năng tồn tại lâu dài hơn những vi khuẩn độc hại thường hay chết theo với gia chủ của chúng. Thành ra, ý thức được điều này có thể làm thay đổi tình hình HIV hiện nay. Nếu nhìn nhận vấn đề dưới góc độ y học tiến hoá, thì điều này hoàn toàn logic và dễ hiểu. Virút HIV nó đã tồn tại qua chọn lọc tự nhiên, thích nghi được với ký chủ qua thích ứng tự nhiên. Chúng ta cũng phải bằng cái tự nhiên để mời “những vị khách không mời” này ra khỏi cơ thể chúng ta thì hẳn là hiệu quả và an toàn hơn nhiều khi chúng ta dùng một hoá chất nhân tạo để tác động vào vi rút; một phần có thể thuốc của chúng ta chính là một sự khuyến khích cho virút HIV đột biến nhanh hơn, sớm hơn để thích nghi với hoàn cảnh sống mới, mặt khác chúng ta hại mình bằng những hoá chất đó. Xung đột với các vi sinh vật khác không chỉ giới hạn trong các tác nhân gây bệnh hay vi khuẩn. Trong quá khứ, con người thường phải đương đầu với dã thú, những “kẻ thù” không ngần ngại dùng con người làm bữa ăn cho chúng. Ngoại trừ vài nơi trên thế giới, những dã thú ăn thịt người ngày nay không còn là mối đe dọa cho sự sinh tồn của con người nữa. Ngày nay, chúng ta đang đương đầu với những sinh vật nhỏ hơn như nhện và rắn chẳng hạn. Một điều khá trớ trêu là chúng ta sợ hãi những sinh vật nhỏ bé vì những ám ảnh về nguy cơ tiếp xúc với chúng. Sự thật là có một sinh vật còn nguy hiểm hơn cả những dã thú hay những sinh vật có khả năng đầu độc: sinh vật đó chính là … con người. Con người gây chiến tranh, đánh phá chém giết nhau, không phải để ăn thịt mà để kết bạn, để tìm thêm thuộc địa và tài nguyên thiên nhiên. Những cuộc xung đột bạo động giữa con người thường xảy ra trong phái nam, nhất là thời còn trẻ tuổi, và qua những xung đột này con người tổ chức thành từng nhóm riêng lẻ để phục vụ cho mục đích gây hấn. Chính vì thế chúng ta thấy quân đội gồm đại đa số là thanh niên, và con người phải trả một cái giá đắt cho việc tổ chức thành nhóm này! Ngay cả những mối quan hệ mật thiết giữa con người cũng có khi gây nên những xung đột có ý nghĩa y khoa. Chẳng hạn như lợi ích tái sản sinh của người mẹ và trẻ sơ sinh, thoạt đầu thì có vẻ theo chiều hướng “đôi bên cùng có lợi”, nhưng nếu xem xét kĩ thì có thể ngược lại. Nhà sinh vật học Robert L. Trivers trong một bài viết năm 1974 từng đưa ra một nhận xét rằng khi đứa con của người mẹ lên vài ba tuổi, lợi ích di truyền của bà mẹ đòi hỏi hay khuyến khích bà mẹ nên có thai một lần nữa, trong khi đó lợi ích của đứa trẻ là được tiếp tục nuôi dưỡng. Ngay từ khi còn trong bụng mẹ, cuộc “tranh chấp” đã xảy ra. Đứng trên quan điểm ưu thế của bà mẹ, kích thước tối ưu của bào thai phải nhỏ hơn một chút so với kích thước mà bào thai và người cha mong muốn. Sự mâu thuẫn lợi ích này, theo David Haig (Harvard University) làm cho cuộc chạy đua giữa bào thai và bà mẹ trong việc điều chỉnh áp suất máu và lượng đường trong máu, thỉnh thoảng có thể làm cho bà mẹ bị cao huyết áp và tiểu đường trong khi mang thai.
|
|
|
Post by NHAKHOA on Nov 28, 2006 16:16:33 GMT -5
Cân bằng lợi và hại
Hầu như mỗi cơ phận của cơ thể con người đều được “thiết kế” để phòng chống bệnh tật, nhưng với một cái giá. Chẳng hạn như tại sao cánh tay của chúng ta không mạnh hơn để phòng chống gãy xương? Xương tay có thể thiết kế dày hơn để chống gãy xương khi chúng ta té, nhưng nếu xương tay được làm cho dày hơn, sự năng động và khéo léo của tay sẽ bị giảm và cổ tay sẽ không linh động được. Tại sao sinh đẻ là một quá trình đau đớn? Tại sao quá trình sinh đẻ lại quá phức tạp? Câu trả lời “trực tiếp” mà sách giáo khoa giải thích là bởi vì đường kính của khung xương chậu của người mẹ chỉ bằng hay dài hơn một chút so với đường kính của đầu của thai nhi. Khung xương chậu lại là một loại xương bán khớp, có nghĩa là nó không hẳn là một xương liền mà không hẳn khớp; nó chỉ giãn nở ở phụ nữ trong giai đoạn cuối của thai kỳ và trong quá trình sinh nở. Xung quanh khớp, xương này là hàng ngàn đầu dây thần kinh cảm giác. Khi đó, đường ra của thai nhi hẹp, dẫn đến sự đau đớn cho người mẹ, và quá trình sinh đẻ có khi trở nên phức tạp khi bài toán khung chậu và kích thước đầu thai nhi không giải quyết được qua “cơ chế cơ học”. Tuy nhiên, trong khi có thai, cơ thể người mẹ tiết ra kích thích tố relaxin giúp làm cho cổ tử cung giãn nở đôi chút, và qua đó làm giảm mức độ phức tạp của quá trình sinh đẻ. Với những câu trả lời như thế sinh viên có vẻ hài lòng, mặc dù trong thực tế đó là những câu trả lời chưa đầy đủ, nếu không muốn nói là có tính “che đậy”. Thật vậy, những sinh viên nào tò mò chắc chắn sẽ hỏi thêm “Tại sao đầu của thai nhi lại quá lớn so với khung xương chậu”, hay “Tại sao cổ tử cung của người mẹ không rộng hơn”? Đây là những câu hỏi không thể trả lời bằng sinh lí học, mà phải được tiếp cận từ thuyết tiến hóa. Khoảng 2,5 triệu năm trước đây, một loài sinh vật tiến hóa và tách rời thành 2 nhóm sinh vật, trong đó một nhóm tiến hóa thành con người hiện đại ngày nay. Khoảng 500 ngàn năm trước đây, tổ tiên của chúng ta đã có bộ óc và sọ lớn như bộ óc và sọ của chúng ta ngày nay. Tuy nhiên, giống cái đã tiến hóa với một xương chậu tròn trĩnh hơn trước đây để cho việc sinh nở dễ dàng hơn. Nhưng có một hạn chế trong quá trình tiến hóa và thích ứng với môi trường sống – đó là con người đi đứng bằng hai chân. Nếu khung xương chậu quá rộng, việc đi đứng (rất quan trọng trong thời săn bắt) sẽ trở nên khó khăn và thiếu hiệu quả. Thành ra, có thể nói kích thước của khung xương chậu là một kết quả của sự cân bằng (hay “thỏa hiệp”) giữa lợi và hại của các đặc tính con người trong quá trình tiến hóa. Sự thoả hiệp này thể hiện ở điểm “không thể được cả hai”, và người phụ nữ chỉ đau khi sinh nở thôi, còn để cái khung chậu có hẹp tí chút thì lại có lợi cho cả một quãng đời sống dài. Tại sao chúng ta đi đứng bằng hai chân? Nhiều giải thích đã được đề ra: đi đứng bằng hai chân có lợi ích sử dụng dụng cụ, vũ khí và bồng bế con. Đi đứng bằng hai chân có nhiều lợi ích, nhưng chúng ta vẫn phải trả giá bởi vì xương sống được thiết kế tối ưu cho sinh vật đi bằng bốn chân, và khi đứng thẳng một lực ép lớn đè nặng trên các đĩa của đệm phần dưới xương cột sống làm đau đớn và có khi tàn phế. Thật vậy, đau lưng là một trong những chứng thường hay gặp nhất trong tất cả các bệnh tật. Có thể thời gian tiến hóa của con người chưa đầy đủ để hóa giải những tác hại này. Một đặc tính khác nếu mới biết qua thì có vẻ như là một thích nghi không tốt: đó là chúng ta thiếu lông (so với các động vật khác như chó và mèo). Có thuyết cho rằng thiếu lông có một ích lợi là làm tăng khả năng ra mồ hôi. Cũng có giải thích khác cho rằng trong quá trình tiến hóa tổ tiên chúng ta tiêu ra khá nhiều thời gian sống trong môi trường sông nước. Dù cho cách giải thích thế nào đi nữa thì thiếu lông cũng có một vài bất lợi, nhất là đối với những người có da nhợt tái, như hay dễ bị cháy nắng và dễ bị ung thư da, thậm chí chết vì ung thư. Có thể xem hội chứng rối loạn thần kinh (manic depressive) nằm trong khuôn khổ giữa lợi và hại. Chứng rối loạn thần kinh có nguồn gốc từ đột biến gien và ảnh hưởng đến khoảng 1% dân số. Hệ quả của chứng rối loạn thần kinh cực kì nguy hiểm: 20% người mắc chứng này tự tử và 20% thì có nguy cơ chết vì các bệnh khác. Chọn lọc tự nhiên có lẽ chống lại các gien gây nên chứng rối loạn thần kinh, cho nên nếu các gien này tồn tại thì chắc chúng cũng có một vài lợi ích. Lợi ích gì ? Qua nhiều thế kỉ người ta biết rằng những người mắc chứng rối loạn thần kinh thường là những người có óc sáng tạo rất cao. Do đó, có lẽ chính các gien gây nên chứng rối loạn thần kinh cũng có lợi ích của chúng về mặt sáng tạo. Bệnh hồng cầu liềm (sickle cell disease) là một ví dụ khác về sự tương quan giữa lợi và hại của gien. Gien gây nên bệnh hồng cầu liềm cũng là gien có lợi ích chống lại bệnh sốt rét. Bệnh này do một gien có tên là hemoglobin (Hb) gây ra. Gien Hb có hai biến thể (alleles: S và A) làm nên ba dạng (genotypes): SS, SA và AA. Biến thể S thường hay tìm thấy trong các sắc dân sinh sống ở các vùng nhiệt đới và Phi châu nơi bệnh sốt rét còn hoành hành, nhưng tại các sắc dân da trắng rất hiếm (dưới 1%) người mang biến thể S. Những người có dạng gien SS rất dễ bị mắc bệnh hồng cầu liềm, nhưng nguy cơ bị bệnh sốt rét thì hầu như không đáng kể! Thích ứng với cái mới Môi trường mà chúng ta đang sống rất khác với môi trường mà chúng ta từng được thiết kế để sống hàng trăm ngàn năm trước đây. Phần lớn những bệnh chúng ta hay gặp ngày nay chỉ phố biến trong vòng 100 năm qua do thay đổi môi trường sống, một phần lớn khác phát sinh từ khi con người bắt đầu làm cuộc cách mạng nông nghiệp (khoảng 15 đến 20 ngàn năm trước đây tại Đông Nam Á). Trước thời cách mạng nông nghiệp, con người sống chủ yếu từng nhóm 10 – 50 người bằng nghề săn thú và hái trái cây hoa quả. Vào thời kì đó, muối còn rất hiếm và đường chỉ có từ trái cây chín hay mật ong, và béo phì có lẽ chưa tồn tại. Nhưng ngày nay chúng ta sống trong một môi trường hoàn toàn khác. Chỉ cần dạo một vòng bệnh viện chúng ta có thể thấy rất nhiều bệnh hiểm nghèo do chính con người gây nên. Tai biến mạch máu não, chẳng hạn, là do chứng vữa xơ động mạch, một vấn đề trở nên rất phổ biến chỉ trong thế kỉ này nhưng rất hiếm trong thời con người còn sống trong cuộc sống săn bắt và hái lượm. Nhiều nghiên cứu dịch tễ học chỉ ra hàng tá yếu tố nguy cơ mà chúng ta có thể tránh để giảm nguy cơ bệnh tim, như hạn chế chất béo, ăn nhiều rau xanh, vận động thường xuyên. Nhưng ở phương Tây, trong khi hàng trăm hệ thống nhà hàng ăn liền khấm khá ra và bành trướng thêm, thì thực phẩm “diet” (tiết thực) lại mòn mỏi đợi trong siêu thị để chờ khách hàng đến chiếu cố, và các thiết bị tập thể dục trở thành những cái móc treo quần áo thời trang đắt tiền. Tỉ lệ người Mĩ quá cân hiện đang lên đến con số 30%, và đang gia tăng. Chúng ta biết cái gì tốt và cái gì xấu cho sức khỏe chúng ta, nhưng tại sao phần đông chúng ta lại tiếp tục đi theo con đường thiếu lành mạnh và có hại cho sức khỏe? Nhân tố nào đã đi đến những quyết định thiếu sáng suốt như thế? Trả lời: bộ não. Mà bộ não thì được hình thành để đối ứng và thích nghi với một môi trường rất khác với môi trường chúng ta đang sống. Ở vùng hoang mạc Phi châu, nơi mà tổ tiên chúng ta được “thiết kế” và hun đúc, chất béo, muối và đường thường rất hiếm và quí. Thời đó, những ai có cơ hội tiêu thụ nhiều chất béo có lợi thế sống sót rất đáng kể. Nói cách khác, những người này có cơ may thoát khỏi những đợt đói khát từng tiêu diệt hầu hết những người đồng tộc ốm yếu hơn. Và chúng ta, hậu duệ của họ, vẫn mang trong người những thói quen ham mê chất béo cho đến ngày nay, nhưng ngày nay chất béo không phải là cái gì quá hiếm hoi nữa. Những “đam mê tiền sử” này -- được thôi thúc bằng những quảng cáo hấp dẫn của các công ti thực phẩm khổng lồ, những công ti cũng tìm cách sống sót vào nỗ lực bán những gì chúng ta muốn tiêu thụ -- dễ dàng đánh bại tri thức và ý chí của chúng ta. Thật là trớ trêu khi con người phải lao động hàng chục thế kỉ để tạo ra những môi trường sống với sữa và mật thừa thãi, để rồi phải chứng kiến sự thành công của chúng ta gây nên những bệnh tật hiểm nghèo và dẫn đến cái chết. Càng ngày chúng ta càng lệ thuộc vào nhiều hóa chất, nhất là rượu và thuốc lá. Những hóa chất gây ra rất nhiều bệnh tật, làm tốn kém đến ngân sách gia đình và nhà nước, cũng như nạn tử vong non. Mặc dù con người trong quá khứ vẫn sử dụng các hóa chất trợ thần kinh (psychoactive substances), nhưng tác hại chỉ trở nên hiển nhiên khi khi chúng ta tiếp xúc với một môi trường mới: đó là sự có mặt của các loại thuốc mới có thể tiêm trực tiếp vào cơ thể. Phần lớn những hóa chất này, kể cả nicotine, côcain và thuốc phiện, là những sản phẩm của quá trình chọn lọc tự nhiên đã được tiến hóa để phòng chống cây cỏ và côn trùng. Bởi vì con người có chung một di sản tiến hóa cùng côn trùng, cho nên phần lớn những hóa chất này ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh. Trong vài thập niên gần đây bệnh ung thư vú đang trên đà gia tăng. Ngoài vài trường hợp do các yếu tố di truyền gây ra, xu hướng này có thể là hệ quả của sự thay đổi môi trường và cách sống của chúng ta. Tiến sĩ Boyd Eaton và đồng nghiệp tại Đại học Emory cho biết tỉ lệ ung thư vú trong các xã hội được xem là "lạc hậu" chỉ bằng một phần nhỏ so với tỉ lệ ở các nước "văn minh" như Mĩ và Âu châu. Họ giả thuyết rằng thời gian giữa tuổi có kinh và tuổi có thai lần đầu là một yếu tố nguy cơ số một. Ngoài ra, yếu tố nguy cơ khác là thời gian từ lúc tuổi có kinh đến tuổi mãn kinh. Trong thời con người còn sống bằng săn hái, tuổi có kinh là khoảng 15 hay thậm chí muộn hơn nữa, và sau đó vài năm là có thể mang thai và sau 2 hay 3 năm nuôi con, lại có thai lần nữa. Thời gian giữa lúc nuôi con và mang thai lần nữa là thời gian nồng độ kích thích tố cao nhất và có thể có ảnh hưởng tiêu cực đến nguy cơ bị ung thư vú. Trong các xã hội hiện đại, ngược lại, tuổi có kinh lần đầu là 12 hay 13, có lẽ một phần là do lượng chất béo đầy đủ cho phép người phụ nữ có khả năng nuôi dưỡng một bào thai – và lần có thai đầu tiên có lẽ vài thập niên sau đó hay không bao giờ. Một người phụ nữ thời săn hái có lẽ có 150 lần kinh nguyệt trong đời, trong khi đó một người phụ nữ trung bình trong xã hội hiện đại có 400 lần kinh nguyệt hay thậm chí cao hơn. Như đã lưu ý trên, mắt của động vật có xương sống được “bố trí” ngược. Mắt của con mực, ngược lại, không có cấu trức ngược đời này, với mạch máu và dây thần kinh bố trí ở phía ngoài, xuyên qua những nơi cần thiết và ghim xuống cái võng mạc để không dễ dàng bị tháo gỡ. Cấu trúc sai lầm của mắt con người là do một nhầm lẫn may rủi; mấy trăm triệu năm về trước, lớp tế bào nhạy cảm trước ánh sáng trong tổ tiên chúng ta được đặt ở vị trí khác với tổ tiên của mực. Hai thiết kế tiến hóa theo hai chiều hướng khác nhau, và cho đến nay không có con đường trở lại!
|
|
|
Post by NHAKHOA on Nov 28, 2006 16:19:15 GMT -5
Tiến hóa và y học tiến hóa Y khoa là một ngành nghề thực tế hơn là lí thuyết. Để điều trị bệnh nhân người bác sĩ muốn biết tại sao bệnh nhân mắc bệnh và phải làm gì để bệnh nhân hết bệnh. Đứng trước bệnh nhân, người bác sĩ thực hành không cần đặt câu hỏi tại sao một cộng đồng mắc bệnh như bệnh nhân này. Bệnh nhân đến phòng mạch bác sĩ với một móng chân sưng vì có quá nhiều acid uric, và bác sĩ cần phải lập tức giúp đỡ bệnh nhân. Còn việc nồng độ acid uric cao lại có thể bảo vệ chúng ta chống lại lão hóa thì chẳng ăn nhập gì đến chuyện gây ra cái móng chân đau trong trường hợp này cũng như không nằm trong phương trình của điều trị bệnh nhân. Thế nhưng y học tiến hóa có thể giúp cho bác sĩ trong nhiều vấn đề thực tế. Chẳng hạn như nhận thức được rằng tiêu chảy, cảm cúm, đau đớn, ói mửa, và lo lắng là những cơ chế phòng vệ có ích cho con người giúp cho bác sĩ điều trị những bệnh này một cách tinh vi hơn. Một mặt, nhận thức này buộc bác sĩ phải suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết định có nên dùng thuốc để làm tê liệt những cơ chế phòng vệ hay không. Đối với y tế công cộng, tiếp cận bệnh tật qua quan điểm của thuyết tiến hóa có ý nghĩa quan trọng, bởi vì nó giúp cho những người hoạch định chính sách suy nghĩ về thay đổi môi trường sinh sống của một dân số. Chẳng hạn như nhận thức rằng những sinh vật có khả năng lây truyền bệnh giữa các kí chủ (bệnh nhân) bại liệt là những sinh vật nguy hiểm có thể giúp ích cho việc phát triển chính sách y tế công cộng. Sử dụng condom không những chỉ phòng ngừa lây truyền các bệnh liên quan đến tình dục, mà còn làm giảm cường độ độc hại của tác nhân gây bệnh. Một bệnh lây truyền qua tình dục làm cho con người chết sớm hay tê liệt sớm thường có xu hướng tăng cường độ độc hại nếu bệnh nhân có nhiều quan hệ tình dục với nhiều người khác nhau; nhưng nếu bệnh nhân sử dụng các phương tiện bảo vệ hay tránh “phiêu lưu” với tình dục thì, theo thuyết tiến hóa, cường độ độc hại của tác nhân gây bệnh có thể giảm. Những nguyên lí này rất có ích cho việc phát triển vắc-xin để phòng chống bệnh tật. Đối với nghiên cứu y khoa và giáo dục y khoa, y học tiến hóa đặt ra rất nhiều chủ đề nghiên cứu thú vị. Hiện nay, mở bất cứ sách giáo khoa y học nào chúng ta đều thấy những lí giải về bệnh tật dưới những tiêu đề như dấu hiệu và triệu chứng, các phát hiện từ nghiên cứu y học, các chẩn đoán khả dĩ, quá trình phát triển của bệnh, biến chứng, dịch tễ học, nguyên nhân, sinh lí học, điều trị, và hệ quả. Nhưng chưa có sách giáo khoa nào có tiêu đề dành cho các lí giải về bệnh tật dưới ánh sáng của y học tiến hóa. Nhiều nhà nghiên cứu y học cho rằng đó là một thiếu sót. Một lí giải bệnh tật đầy đủ phải trả lời những câu hỏi sau đây: · Khía cạnh nào của hội chứng của căn bệnh là trực tiếp xuất phát từ bệnh, và khía cạnh nào xuất phát từ các cơ chế phòng vệ của cơ thể? · Nếu căn bệnh là do một phần di truyền thì tại sao các gien gây bệnh tồn tại? · Có phải các yếu tố liên quan đến môi trường sống cũng góp phần gây nên căn bệnh? · Nếu căn bệnh liên quan đến nhiễm trùng thì khía cạnh nào của căn bệnh là có lợi cho kí chủ (bệnh nhân) và khía cạnh nào có lợi cho kí sinh trùng? Các tác nhân gây bệnh sử dụng “chiến lược” nào để làm tê liệt hệ thống phòng vệ của cơ thể? · Những di sản tiến hóa nào hay những dàn xếp gữa lợi và hại nào làm cho chúng ta mắc bệnh? Những câu hỏi đơn giản như thế có thể giúp cho chúng ta một số định hướng để nghiên cứu y học trong tương lai. Ngay cả đối với cảm lạnh cũng đặt ra một số đề tài thú vị: sử dụng aspirin sẽ đem lại hiệu quả hay tác hại gì? Hệ quả của việc sử dụng thuốc hít vào mũi (inhalers) hay các thuốc chống nghẹt mũi ra sao? Một thách thức cho y học tiến hóa là đánh giá hiệu quả của các chất chống oxy hóa (anti-oxidants) như vitamin C, vitamin E và beta-carotene. Y học cổ truyền từ lâu cho rằng những chất này có hiệu quả chống lại bệnh tim mạch, ung thư, và thậm chí làm giảm lão hóa. Đến nay đã có nhiều kết quả từ các nghiên cứu lâm sàng nhất quán với quan điểm cổ truyền trên, nhưng một nghiên cứu qui mô khác vào năm 1994 lại cho thấy các chất trên có thể làm tăng nguy cơ ung thư ở vài người! Nhưng đứng trên nguyên lí của y học tiến hóa, chúng ta có thể lí giải rằng chọn lọc tự nhiên có thể làm cho nồng độ hóa chất chống oxy hóa trong cơ thể nâng cao ngay cả chúng có thể gây ra một số bệnh. Nồng độ axít uric thường cao hơn ở các sinh vật sống lâu và ở những người với bệnh gout. Rất có thể chọn lọc tự nhiên làm tăng nồng độ axít uric hay các hóa chất khác kể cả bilirubin, bởi vì đây là những hóa chất chống oxy hóa có thể làm chậm quá trình lão hóa ở những sinh vật sống lâu. Đây là những đề tài đơn giản mà chúng ta có thể khai thác trong tương lai. Như chúng ta đã thấy qua vài trường hợp trình bày trên đây, chọn lọc tự nhiên hay tiến hóa không phải nhằm mục đích tối ưu hóa sức khỏe của sinh vật, mà chỉ quan tâm đến sự tái sản sinh của gien. Những gì đem lại lợi ích cho gien không có nghĩa là sẽ đem lại lợi ích cho sinh vật, cho chúng ta. Thành ra, một gien có thể làm cho chúng ta có khả năng tái sản sinh tốt, và gien đó sẽ trở nên phổ biến hơn trong các thế hệ mai sau, nhưng cũng chính gien đó có thể gây tác hại khác đến sức khỏe của chúng ta! Trong phần cuối của cuốn sách nổi tiếng “Origin of Species” (Nguồn gốc của các chủng loại), Charles Darwin tiên đoán rằng công trình của ông sẽ dẫn đến nhiều nghiên cứu quan trọng trong một tương lai gần. Sau gần 200 năm, tiên đoán của Darwin đang dần dần trở thành sự thật. Mặc dù dưới ánh sáng của lí thuyết Darwin, sinh học tiến hóa nay chỉ mới đang trong giai đoạn phôi thai, và mới được công nhận là một bộ môn khoa học cơ bản của y khoa. Hiện nay, y học tiến hóa chỉ tồn tại ở mức độ lí thuyết, nhưng những giải thích sâu sắc của y học tiến hóa có thể dẫn đến một cuộc cách mạng trong y học hiện đại. Nếu không hiểu thấu đáo được sự năng động của quá trình tiến hóa, chúng ta sẽ không thể nào hiểu đúng nguồn gốc của bệnh tật. Ghi chú: 1. Phần lớn bài viết này là tóm tắt quyển sách “Why we get sick: The new science of Darwinian medicine” của Randolph M. Nesse và George C. Williams, Nhà xuất bản Vintage Books , New York, 1994. Có thể nói Nesse và Williams là hai nhà khoa học khởi xướng thuyết y học tiến hóa hay y học Darwin. Randolph M. Nesse là một bác sĩ tâm thần và giữ chức giáo sư y khoa, Đại học Michigan. George C. Williams là giáo sư sinh thái học và tiến hóa (ecology and evolution) thuộc đại học Stony Brook (State University of Stony Brook). 2. Ngoài cuốn sách trên, một số dữ kiện được trích ra từ các tài liệu sau đây: Harris EE, Malyango AA. Evolutionary explanations in medical health profession courses: are you answering your students “why” questions? BMC Medical Education 2005, 5:16 doi:10.1186/1472-6920-5-16; Wick G, et al. A Darwinian-evolutionary concept of age-related diseases. Experimental Gerontology 2003; 38:13-25; Nesse RM, Williams GC. on Darwinian medicine. Life Science Research (published in China) 1999; 3:1-17, and 1999; 2:79-91. 3. Tác giả cám ơn Bác sĩ Nguyễn Đình Nguyên đã đọc qua bản thảo, biên tập và góp ý vài phần trong bài viết.
Tác giả bài viết: GS Nguyễn Văn Tuấn, Viện Y khoa Garvan, Sydney – Úc
|
|
|
Post by NHAKHOA on Nov 28, 2006 16:45:24 GMT -5
Sự nguy hiểm của nụ hôn Một phương pháp hữu hiệu phòng sâu răng. Có lẽ các đôi uyên ương đành phải chấp nhận chỉ nắm tay nhau trong Ngày lễ Tình yêu năm nay. Bởi vì, khi hôn, người ta truyền cho nhau vi khuẩn sâu răng! Và cũng đừng buồn, nếu bạn chỉ có một mình: "Bớt" một nụ hôn là "bớt" được khoảng 500 vi khuẩn lăm le tấn công. Đó là chưa kể đến virus đấy nhé. "Thời gian và chất lượng" "Hôn nhau là cách tốt nhất để truyền virus". Đó là ý kiến của Giáo sư Lewis Smith, Đại học Northwestern, Chicago (Mỹ). Bởi vì các nụ hôn khác nhau về cường độ và thời gian, nên không thể biết "cần" mấy nụ hôn để bạn "ngã bệnh". Các chuyên gia thì cho rằng có 10 virus là truyền được bệnh. Do đó, hôn nhau càng lâu, càng mạnh thì virus càng dễ tấn công đối tượng mình yêu. Bám chặt, tấn công, xâm nhập Trong "hàng ngũ" các virus gây cúm, virus cúm A được xem là thông minh nhất. Phương châm tồn tại của nó là sao chép phiên bản của mình trong môi trường ấm áp, giàu chất dinh dưỡng như cơ thể người. Để tiếp cận mục tiêu, virus này sử dụng các "phương tiện giao thông" như những cái ho, hắt hơi, hay nước bọt của nụ hôn. Được trang bị bởi một loại protein có khả năng bám dính, nó bám ngay vào bề mặt tế bào lành và phòng thủ ở đó cho đến khi chui được vào trong. Tại đây, các vị khách không mời này dùng năng lượng của tế bào để sản xuất các bản sao của mình. Và như vậy, virus cứ nhân lên, nhân lên mãi, cho tới khi tế bào không thể chứa nổi tất cả những bản sao này và vỡ tung ra. Lúc này, đã có hàng trăm hàng nghìn virus bám chặt lấy các tế bào khoẻ mạnh khác trong cơ thể. Virus "ủ bệnh" trong vài ngày, sau đó nạn nhân bắt đầu hắt hơi, mệt mỏi, sốt nhẹ. Và chẳng bao lâu nữa, chàng (hay nàng) chỉ còn có thể "hôn" mấy chiếc khăn giấy mà thôi! Cuộc chiến Tuy nhiên, cơ thể cũng có cách chống trả. Giáo sư Howard Berg, Đại học Harvard (Mỹ) nói: "Quá trình lành bệnh giống như một cuộc chiến". Bạn có thể hắt hơi, thấy đau cơ, ngạt mũi, đau họng nhưng đó là tín hiệu tốt. Nó chứng tỏ hệ miễn dịch của bạn đã được huy động. Các tế bào lympho, với khả năng tự chuyển động, là thành phần chính của đội quân này. Khi cuộc chiến giữa các tế bào lympho và virus xảy ra, tại phổi sẽ xuất hiện phản ứng viêm. Nhưng cuối cùng, hệ miễn dịch sẽ chiến thắng. Trật tự được lập lại. Toàn bộ quá trình từ khi nhiễm bệnh đến khi khỏi bệnh kéo dài khoảng 2 tuần. Theo thống kê, hàng năm nước Mỹ phải tiêu tốn khoảng 14,6 tỷ USD cho căn bệnh này. Bây giờ, bạn có cảm thấy dễ chịu hơn vì chưa có người yêu hay không? Thu Thuỷ (theo ABC, Reuters,14/2).
|
|
|
Post by NHAKHOA on Mar 1, 2007 16:04:06 GMT -5
SỬ DỤNG ÐIỆN THOẠI DI ÐỘNG VÀ NGUY CƠ U NÃO Từ vài năm nay, đã có nhiều nỗi lo về nguy cơ u não khi sử dụng điện thoại cầm tay. Nếu quả thật có nguy cơ đó thì đây thật sự là một vấn đề sức khỏe cộng đồng đáng quan tâm vì số người sử dụng điện thoại di động (ÐTDÐ) trên thế giới ngày càng tăng. Ðể phần nào làm sáng tỏ vấn đề này, một nhóm tác giả đã tiến hành một nghiên cứu bệnh-chứng tại Boston (Hoa Kỳ) từ năm 1994 đến 1998.
Trong nghiên cứu bệnh-chứng này, các tác giả đã khảo sát việc sử dụng ÐTDÐ ở 782 BN có chẩn đoán khối u trong sọ, trong đó 489 trường hợp là u tế bào thần kinh đệm, 197 trường hợp là khối u màng não, và 96 trường hợp u dây thần kinh số VIII. Nhóm chứng là 799 BN mắc những bệnh lành tính khác nhau, ở cùng bệnh viện với BN u não.
Kết quả cho thấy, so với những người chưa bao giờ hoặc rất hiếm khi sử dụng ÐTDÐ, nguy cơ tương đối của việc sử dụng ÐTDÐ cộng dồn >100 giờ là 0,9 đối với u thần kinh đệm (KTC 95%; 0,3-1,6), là 0,7 đối với u màng não (KTC 95%: 0,3-1,7), là 1,4 đối với u dây thần kinh số VIII (KTC 95%: 0,6-3,5), và là 1 đối với mọi loại khối u gộp chung (KTC 95%: 0,6-1,5). Không có bằng chứng nào cho thấy nguy cơ cao hơn ở những người dùng ÐTDÐ ?60 phút/ngày hoặc sử dụng đều đặn trong thời gian >5 năm. Cũng không thấy khối u trong sọ hiện diện nhiều hơn thiên về phía tai hay dùng nghe điện thoại.
Dữ liệu trên không ủng hộ giả thiết cho rằng việc sử dụng điện thoại cầm tay gây u não do bức xạ không ion-hóa của máy phát ra. Tuy vậy, theo các tác giả, số liệu vẫn chưa đủ để đánh giá nguy cơ trên những đối tượng sử dụng ÐTDÐ quá nhiều và lâu dài.??
Theo N Engl J Med 2001; 344:79-86) (NT).
|
|
|
Post by NHAKHOA on Mar 1, 2007 16:05:35 GMT -5
TRÀ XANH VÀ UNG THƯ DẠ DÀY? Tại nhiều nước, ung thư dạ dày là một trong mười nguyên nhân tử vong hàng đầu trong những bệnh liên quan đến ung thư. Từ sau năm 1930, tại các nước phương Tây xuất độ ung thư dạ dày đã giảm dần. Tuy lý do thật sự của hiện tượng này chưa được rõ, nhưng các yếu tố góp phần được nhận định là do giảm tiêu thụ thực phẩm được bảo quản bằng muối và tăng tiêu thụ rau quả tươi nhờ phương tiện bảo quản bằng tủ lạnh trở nên phổ biến. Tại Nhật, xuất độ ung thư dạ dày giảm chậm hơn, và đây vẫn là bệnh ung thư thường gặp nhất ở cả nam lẫn nữ. Việc tầm soát ung thư dạ dày hàng năm trở thành thường quy đối với người trên 40 tuổi. Kỹ thuật thông dụng để tầm soát là chụp X-quang tương phản kép với baryt; ngoài ra các phòng khám tiêu hóa thường được trang bị phương tiện nội soi để tầm soát và chẩn đoán nhanh các triệu chứng ở đường tiêu hóa trên.
Nhờ vậy, khối u dạ dày được phát hiện sớm hơn, tuy chỉ có một nửa số trường ung thư dạ dày có triệu chứng ở giai đoạn đầu. Hệ?quả là số tử vong do ung thư dạ dày ở Nhật năm 1997 đã giảm xấp xỉ một nửa so với con số ước tính từ năm 1994 (49.739 so với 97.991 tử vong dự kiến).
Có một số điểm khác biệt về ung thư dạ dày ở các nước phương Tây so với Nhật. Khác biệt rõ nhất là vị trí khối u ở phần đầu dạ dày (tâm vị) hay gặp ở phương Tây hơn, trong khi ở Nhật thường thấy khối u ở phần cuối dạ dày (hang vị). Các yếu tố nguy cơ của ung thư dạ dày thể kinh điển -khối u ở hang vị- như tình trạng kinh tế-xã hội thấp, ăn mặn, nhiễm Helicobacter pylori, viêm dạ dày thể teo mạn tính xem ra không liên quan với khối u tâm vị. Ngoài ra, ung thư biểu mô tuyến ở tâm vị khác với khối u ở hang vị về mặt di truyền, và đối với ung thư tâm vị, các yếu tố nguy cơ được đề xuất là béo phì và viêm thực quản do trào ngược. Tuy những nghiên cứu di truyền học không phát hiện được những khác biệt giữa các trường hợp ung thư dạ dày ở Nhật và ở phương Tây, nhưng một nghiên cứu gần đây tại Hoa Kỳ cho thấy cả hai loại ung thư dạ dày nói trên có tiên lượng tốt hơn ở những người gốc châu Á, so với người không phải gốc Á. Ðiều đó gợi ý có những yếu tố liên quan với ký chủ đã ảnh hưởng đến tiên lượng bệnh. Với nếp sống tây phương hóa nhanh tại Nhật trong 50 năm qua, nhưng ung thư dạ dày tại Nhật chẳng có dấu hiệu gì là "tây phương hóa' cả.
Có nhiều yếu tố ẩm thực khác nhau được cho là có vai trò căn nguyên hoặc bảo vệ chống ung thư dạ dày. Có bằng chứng rõ ràng là ăn những thực phẩm mặn như dưa muối, cá muối sẽ làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày, trong khi dùng rau quả tươi lại có tác dụng bảo vệ. Ngoài ra, các nghiên cứu dịch tễ học và thực nghiệm còn cho thấy trà xanh có thể có tác dụng bảo vệ chống ung thư dạ dày.
Trà xanh được tiêu thụ rộng rãi ở châu Á và rất đại chúng ở Nhật. Khác với trà đen, trà xanh được chế biến bằng lá tươi nấu cho bốc hơi ở nhiệt độ cao, làm bất hoạt các enzym oxy-hóa nhưng vẫn giữ nguyên các polyphenol. Nghiên cứu trên động vật cho thấy polyphenol trong trà xanh, trong đó thành phần chính là epigallocatechin-3-gallat, có các tác dụng chống sinh đột biến, chống sinh ung thư và kháng viêm. Những nghiên cứu dịch tễ học gợi ý rằng trà xanh có tiềm năng giảm nguy cơ viêm teo dạ dày mạn tính, ung thư dạ dày, ung thư da, bệnh động mạch vành và một số nhiễm khuẩn. Dân Nhật rất phấn khởi trước những kết quả này và xem trà xanh như một thức uống có lợi cho sức khỏe.
Tuy vậy, một nhóm tác giả Nhật, đúng đầu là Tsubono, mới đây vừa cho công bố kết quả của một nghiên cứu thuần tập tiền cứu, dựa vào dân số, tại Nhật cho thấy không có sự kết hợp giữa việc uống trà xanh và nguy cơ ung thư dạ dày (Tsubono et al, N. Eng. J. Med. 1/3/2001). Khác với những nghiên cứu bệnh-chứng trước đây, nghiên cứu thuần tập này không thấy tác dụng bảo vệ của trà xanh. Thật ra, có một sự gia tăng không có ý nghĩa thống kê về nguy cơ ung thư dạ dày ở những người uống >5 tách trà xanh mỗi ngày so với những người uống <1 tách trà/ngày. Kết quả của nghiên cứu này là bằng chứng dịch tễ học hùng hồn nhất cho đến nay về sự liên quan giữa trà xanh và nguy cơ ung thư dạ dày.
Nghiên cứu thuần tập này được thực hiện tại quận Miyagi, một vùng nông thôn phía bắc nước Nhật có xuất độ ung thư dạ dày tương đối cao. Trong nghiên cứu, việc uống trà xanh được chia thành bốn mức độ. Mức độ cao nhất là ?5 tách/ngày (một tách trà được qui định là 100 ml) chiếm 42% số đối tượng nghiên cứu. Trong nhóm này còn chia ra hai nhóm nhỏ: từ 5-9 tách/ngày và ?10 tách/ngày, vì trong các nghiên cứu bệnh-chứng trước đây, người ta thấy giảm nguy cơ dạ dày ở những người uống ?10 tách trà/ngày. Trong nghiên cứu của Tsubono, việc uống trà xanh đi kèm với các yếu tố khác có thể làm tăng hoặc giảm nguy cơ ung thư dạ dày. Chẳng hạn, ở nhóm nam uống <1 tách/ngày thì tỉ lệ ăn dưa muối và rau quả tươi, theo thứ tự, là 60,1% và 47,1%, trong khi ở nhóm nam uống ?5 tách/ngày, các tỉ lệ tương ứng là 73,2% và 58,1%. Tỉ lệ ăn dưa muối (yếu tố nguy cơ) và ăn rau quả tươi (yếu tố bảo vệ) càng cao thì tỉ lệ tiêu thụ trà xanh càng cao. Hút thuốc lá cũng là một yếu tố đi kèm với việc uống trà xanh. Trong nhóm nam giới uống <1 tách/ngày, có 72,1% đang hoặc đã từng nghiện thuốc lá, trong khi ở nhóm uống ?5 tách/ngày có 81,2% đã từng hoặc đang nghiện thuốc lá. Trong số những người đang nghiện thuốc lá, tỉ lệ nghiện nặng (hút >20 điếu/ngày) là 29,4% ở nhóm ít uống trà nhất và 40,9% ở nhóm uống nhiều trà xanh nhất. Các yếu tố gây nhiễu đó làm phức tạp thêm việc giải thích vai trò của trà xanh, ngay cả khi đã xử lý bằng phân tích đa biến.
Như vậy, kết quả của các nghiên cứu bệnh-chứng đã không thể khẳng định bằng nghiên cứu thuần tập tiền cứu hoặc nghiên cứu can thiệp. Những sự kết hợp biểu kiến giữa thói quen ẩm thực với nguy cơ ung thư (ví dụ như ăn mỡ và ung thư vú, ăn rau và ung thư đại tràng) hiện nay đang được đánh dấu hỏi qua kết quả của các nghiên cứu tiền cứu. Nghiên cứu của Tsubono cung cấp thêm một ví dụ. Vì thế, tại Nhật hiện đang tiến hành những thử nghiệm can thiệp và nghiên cứu đoàn hệ lớn về mối quan hệ giữa việc uống trà xanh và ung thư dạ dày. Trong khi chờ đợi, những ai thích uống trà xanh vẫn cứ việc uống, nhưng đừng quá hy vọng rằng thú vui này sẽ làm giảm nguy cơ ung thư dạ dày.?
Theo New England Journal of Medicine, 1/3/2001
|
|
|
Post by NHAKHOA on May 22, 2007 14:22:44 GMT -5
Yogurt hay sữa chua lên men là một loại thực phẩm mà ai cũng đều biết hết. Đây là một thức ăn ngon miệng đồng thời cũng là một thực phẩm chức năng đầy tính bổ dưỡng. Yogurt được làm cho lên men bởi những loại vi khuẩn tốt, đó là những Probiotics.
Probiotic là gì?
Đây là những vi khuẩn có ích lợi cho sức khỏe chúng ta. Probiotic là những vi khuẩn tốt sống trong đường tiêu hóa và ngay cả trong âm hộ. Sự hiện diện của probiotic giúp ngăn chận tác hại của các vi khuẩn xấu xâm nhập vào ruột. Thí dụ điển hình về probiotic là vi khuẩn Bifidobacterium và vi khuẩn Lactobacillus trích từ hệ vi sinh đường ruột. Hai loại vi khuẩn nầy từ lâu đã được Nhật bản và Âu châu sử dụng trong kỹ nghệ sản xuất sữa chua lên men. Tại Hoa Kỳ, trên 60% yogurt có chứa bifidobacterium và lactobacillus. Trong kỹ nghệ yogurt, các probiotics sau đây thường được thấy sử dụng: Bifidobacterium bifidum, Bifidobacterium breve, Bifidobacterium infantis, Bifidobacterium longum, Lactobacillus acidophilus và Lactobacillus casei.
Probiotic có ích lợi gì cho sức khỏe?
Theo giới thuốc thiên nhiên, kỹ nghệ sữa cũng như ý kiến của một số nhà dinh dưỡng thì yogurt là một thực phẩm chức năng (functional food) rất tốt cho sức khỏe. Probiotic trong yogurt có thể đem đến cho cơ thể những lợi ích sau đây:
*-Ngăn chận sự xâm nhập của các vi khuẩn gây bệnh bằng cách cản chúng bám vào thành ruột.
*-Giúp cho việc tiêu hóa thức ăn được hữu hiệu hơn. Đối với những người thường bị chứng bất dung nạp đường lactose (intolérance au lactose) thì probiotic sẽ giúp họ tiêu hóa chất đường nầy được dễ dàng hơn.
*-Giảm nguy cơ bị tiêu chảy do uống nhiều thuốc kháng sinh (antibiotic associated diarrhea hay AAD).
*-Điều hoà hệ miễn dịch.
*-Ngừa cancer ruột.
*-Giảm cholesterol trong máu.
*-Giảm thiểu hiện tượng dị ứng.
*-Các thí nghiệm gần đây cho biết probiotic cũng có ít nhiều tác dụng tốt trong việc chữa trị các bệnh viêm ruột tiêu chảy do virus và vi khuẩn chẳng hạn như Clostridium difficile.
Có quảng cáo còn đi xa hơn nữa, như bảo…probiotic giúp vào việc quân bình của các hormones, ngừa viêm đường tiết niệu và viêm âm hộ, ngăn ngừa chứng loãng xương, ngăn chặn tác dụng độc hại của tia phóng xạ và của các kim loại nặng, ngừa chứng hôi miệng và giảm stress, v.v…
Trên đây là những gì kỹ nghệ probiotic đã quảng cáo. Tại Canada và Hoa Kỳ, probiotic chỉ được xếp vào loại thực phẩm bổ sung (dietary supplement) mà thôi...Ở dạng bột và dạng viên, probiotic phải chịu sự chi phối của cơ quan FDA thông qua luật Dietary Supplement Health and Education Act Standards...Trường hợp dùng để làm lên men yogurt, kefir (cũng là nột loại sữa lên men) thì probiotic được xem như nằm trong thành phần bình thường của sản phẩm...Trường hợp kỹ nghệ muốn sử dụng một loại vi khuẩn nào đó như một probiotic để thêm vào sản phẩm, vi khuẩn nầy cần phải được FDA xét duyệt và công nhận là nằm trong nhóm vi khuẩn an toàn gọi là GRAS (Generally Recognized as Safe). Vấn đề probiotic còn rất phức tạp và chưa rõ rệt cho lắm nên các cơ quan y tế của Canada lẫn Hoa Kỳ chỉ cho phép ghi chú trên món hàng những câu quảng cáo (claims) chung chung như “giúp cho hệ vi sinh đường ruột được tốt” (supports a healthy intestinal flora) mà thôi.
Probiotic phải là vi khuẩn sống!
Muốn được hiệu nghiệm, probiotic cần phải là vi khuẩn sống. Trở ngại thường gặp phải là acid của dịch vị tiêu hóa có thể hủy diệt lối 90% probiotic đã được ăn vào. Bởi lý do nầy mà chúng ta cần tiêu thụ một số lượng thật lớn probiotic để bù đắp số probiotic mất mát. Chúng ta cũng có thể uống những thuốc probiotic có áo bọc bên ngoài để nó chỉ tan ra lúc vào đến ruột mà thôi. Tại Canada, luật lệ về bao bì nhãn hiệu quy định sản phẩm probiotic cần phải được ghi chú rõ rệt về nồng độ vi khuẩn sống (active) hay U.F.C (unités formatrices de colonies) cho mỗi gram sản phẩm.
Probiotic, một mặt hàng đang lên
Khuynh hướng của nguời tiêu thụ nói chung là càng ngày họ càng chuộng những sản phẩm có mang tính thiên nhiên. Âu châu dẫn đầu trong việc tiêu thụ probiotic. Mỗi người dân Pháp tiêu thụ trung bình hằng năm 33kg yogurt trong khi mỗi người dân Mỹ chỉ tiêu thụ có 4 kg. Trên thị trường, probiotic không những chỉ hiện diện trong yogurt mà thôi nhưng nó còn có thể được thấy trong hằng trăm loại sản phẩm khác nữa. Sản phẩm có probiotic rất đa dạng. Đôi khi nhà sản xuất cho trộn thêm vào yogurt những chất fructo oligosaccharides trích từ Inuline (là một glucide) của cây Chicorée (Chicory, wild succory). Chất thêm vào nầy được gọi là Prebiotic và có công dụng giúp cho probiotic tăng trưởng mạnh hơn. Tại Canada, probiotic có mặt trong các món hàng sau đây: yogurt, nước trái cây, Activia,Yoptimal, Lait Natrel PRO và trong các viên thuốc probiotic, v.v…
Nên mua loại probiotic nào?
Tốt hơn hết là nên chọn những sản phẩm có chứa những probiotics nào đã từng được nghiên cứu nhiều, như Lactobacillus casei, Lactobacillus rhamnosus…Nên chọn các vi khuẩn có tính cộng lực với nhau vì mỗi loại vi khuẩn có khuynh hướng tác động tại những nơi chuyên biệt khác nhau chẳng hạn như Lactobacillus có tác động chủ yếu trên ruột non còn loại Bifidobacterium thì tác động trên ruột già. Tại Quebec, sản phẩm yogurt thường có chứa các loại probiotic như Lactobacillus bulgaricus, Streptococcus thermophilus, Lactobacillus acidophilus, Lactobacillus casei và Bifidus…
+chọn những viên có áo bọc để tránh bị acid của bao tử làm tổn hại vi khuẩn.
+nên biết là yogurt loại chúng ta thường mua ở siêu thị đều chứa rất ít vi khuẩn.
+nên mua những loại yogurt dùng để trị liệu (yogurt thérapeutique) vì có chứa số lượng lớn vi khuẩn cần thiết. Có thể mua trong các tiệm bán thực phẩm thiên nhiên.
+tránh mua yogurt có pha trộn thêm nhiều loại trái cây.
+tốt nhất nên mua những loại yogurt ferme hoặc nature hay plain.
Số lượng vi khuẩn sống có hoạt tính cũng có thể rất thay đổi tùy theo nhãn hiệu yogurt. Theo các nhà chuyên môn, một yogurt tốt cho sức khỏe cần phải có ít nhất 10 triệu vi khuẩn/gr trở lên. Thông thường, yogurt bán ở chợ chứa rất ít vi khuẩn có hoạt tính, có lẽ vì được sản xuất từ sữa đã được hấp khử trùng (pasteurisé) hoặc đã được cho thêm những hoá chất để làm ổn định (stabilisé) sản phẩm trước khi bán ra, thí dụ như các loại yogurt có trộn thêm trái cây.
Các dạng của probiotic
Ngoài dạng probiotic thường gặp trong yogurt, kefir, v.v… Probiotic còn có thể được thấy bán ra dưới nhiều hình thức khác như:
Probiotic cô lảnh (lyophilisé): Khi hạ nhiệt độ xuống thật thấp vi khuẩn sẽ trở nên khô như bột nhưng không bị hủy diệt. Chúng sẽ sống trở lại lúc được uống vào. Viên nang (capsule): Tại Canada, mỗi viên chứa từ 2 đến 6 tỉ vi khuẩn. Thường có hai hoặc bốn loại vi khuẩn phối hợp lại với nhau. Các vi khuẩn thường được sử dụng có thể là: L.casei, L.acidophilus, L.bulgaricus, L.rhamnosus, Streptococcus thermophilus, B.lactis, B. longum. Một số viên probiotics được bán dưới dạng đông lạnh hay dạng trữ lạnh, một số khác thì được giữ ở nhiệt độ bình thường. Dạng lạnh chứa nhiều vi khuẩn sống hơn dạng bình thường. Bột (poudre): Dạng bột để pha trong nước. Nhờ lưu lại bao tử trong thời gian ngắn nên khi đến ruột một số lượng lớn vi khuẩn vẫn còn sống. Yogurt trị liệu (yogurt thérapeutique): Nên uống trước bữa ăn. Có thể chứa một tỉ lệ Probiotic rất cao (50 tỉ cho một liều). Men bia, có hai loại: 1-Men bia Saccharomyces boulardii, còn gọi là men sống hay men có hoạt tính. Được xấy khô ở nhiệt độ không quá 40oC. Có tính năng trị liệu rất tốt.
2-Men không có hoạt tính thường là những phế phẩm của kỹ nghệ bia. Giá rẻ. Probiotic không có hoạt tính vì đã bị xấy khô ở nhiệt độ cao.
Kết luận
Hiện nay trên thị trường, probiotic cũng như Omega-3 nhờ khéo quảng cáo đã trở thành những mặt hàng đang lên rất mạnh mẽ trên khắp thế giới... Kỹ nghệ sữa và kỹ nghệ thuốc thiên nhiên đều hết lời ca tụng probiotic và xem nó như là một thực phẩm bổ sung mang những tính năng phòng trị được rất nhiều bệnh tật. Ngược lại, phía y khoa thì dè dặt hơn. Họ cũng công nhận rằng probiotic là vi khuẩn tốt cho sức khỏe, nhất là trong việc củng cố hệ vi sinh đường ruột và ngăn chặn bệnh tiêu chảy do việc lạm dụng thuốc kháng sinh gây ra. Còn đối với các tính năng khác của probiotic thì các bác sĩ khuyên chúng ta cần phải thận trọng dè dặt hơn vì lẽ còn thiếu rất nhiều xét nghiệm lâm sàng cùng các khảo cứu khoa học đáng tin cậy. Người ta tự hỏi phải chăng cơn sốt probiotic chẳng qua chỉ là một đòn khuyến mãi của kỹ nghệ sữa?
Nhưng dù có nói sao đi nữa, chúng ta phải nhìn nhận rằng yogurt là một thức ăn ngon miệng và rất tốt cho tất cả mọi người bất luận già hay trẻ. Tại sao chúng ta không dám thử? Nguyen Thuong Chanh DVM
|
|
|
Post by NHAKHOA on Mar 14, 2009 14:05:04 GMT -5
chảy máu cam Friday, February 27, 2004 Thạc sĩ Phạm Bích Đào (Sức Khỏe & Đời Sống)
Hiện tượng này đứng hàng đầu về tần số xuất hiện trong các triệu chứng chảy máu tự phát đường hô hấp trên. Theo y văn thế giới, khoảng 60% dân số chảy máu cam ít nhất một lần trong đời; trong đó chỉ 6% cần được chăm sóc y tế.
Niêm mạc mũi dễ chảy máu vì có nhiều mạch máu tập trung với mạng lưới mao mạch rất dày. Chảy máu mũi hay gặp nhất ở người trên 40 tuổi (64%) do thành mạch ở độ tuổi này có sức đàn hồi kém. Số bệnh nhân tăng đáng kể trong giai đoạn chuyển mùa vì sự thay đổi thời tiết ảnh hưởng lớn đến một số bệnh toàn thân (như tăng huyết áp, dị ứng...) hoặc gây rối loạn vận mạch, làm tổn thương niêm mạc hốc mũi.
Ngoài các ca chảy máu mũi do tăng huyết áp, chấn thương, viêm nhiễm tại chỗ, nhiễm trùng toàn thân (sốt do virus, viêm gan mạn tính, tiểu đường, suy thận...), phần lớn trường hợp không xác định được nguyên nhân. Đây là loại chảy máu mũi tự nhiên, lượng máu chảy ít, tự cầm, hay tái diễn, thường xảy ra khi gắng sức hoặc đi ngoài trời nắng.
Khi bị chảy máu mũi, trước hết nên tìm cách cầm máu, khi ổn định mới tiến hành tìm hiểu nguyên nhân. Tại nhà, nếu chảy máu nhẹ (máu chảy nhỏ giọt ra phía trước của mũi, số lượng ít), nên để người bệnh ngồi cúi về phía trước, dùng ngón cái và ngón trỏ bóp chặt hai cánh mũi trong 10 phút, máu có thể cầm. Ở những nơi có sẵn lá nhọ nồi hay lá chuối non, nên giã nhỏ lá này rồi nhét vào bên mũi chảy máu.
Nếu máu vẫn tiếp tục chảy nhiều ra trước mũi và xuống dưới miệng, phải nhớ luôn luôn đùn máu ra phía ngoài miệng, tuyệt đối không được nuốt (để tránh chướng bụng và những chất độc do máu phân hủy thành). Cho uống thuốc an thần như Seduxen (nếu có). Nếu ở xa cơ sở y tế, có thể tìm đoạn vải dài, sạch ấn sâu vào trong hốc mũi chảy máu; sau đó khẩn trương vận chuyển người bệnh đến cơ sở y tế gần nhất để cầm máu và tìm nguyên nhân để điều trị.
Chảy máu mũi rất hay tái phát. Do đó, để phòng tránh, bệnh nhân cần thực hiện đúng hướng dẫn của thầy thuốc như: tiếp tục điều trị những viêm nhiễm tại mũi, khám và điều trị các nguyên nhân gây chảy máu mũi đã được xác định.
Tập thể dục cũng phải xem giờ?
Bạ n có biết tập thể dục đúng giờ giấc sẽ mang lại hiệu quả bất ngờ? Hãy bắt đầu tập thể dục đúng giờ, bạn sẽ thấy ngay hiệu quả!Bạn cứ thắc mắc mình đã tập luyện nhiều hơn, nhưng vẫn không có được vóc dáng như ý. Sau đây là các nguyên nhân:
1. Để tiêu hao mỡ thừa một cách hiệu quả: Bạn cần phải vận động cơ thể nhiều hơn.
- Vận động khi nào tốt nhất? Câu trả lời là bạn nên tập thể dục vào buổi sáng sớm (khoảng 5g-6g). Thứ nhất, nếu bạn tập sau khi ăn có thể dẫn đến tình trạng đau cơ bụng, không tốt cho tiêu hoá và bao tử. Thứ hai, tập vào buổi sáng sớm, lúc này chưa có lượng hydrat carbon. Khi bạn vận động, cơ thể sẽ dùng năng lượng của mỡ thừa. Thứ ba, nhiệt độ cơ thể thấp nhất vào buổi sáng. Vận động nhiều sẽ khiến cơ thể phát nhiệt nên sẽ điều hoà, giúp bạn có thể tập lâu, hiệu quả cao. Cuối cùng, không khí buổi sáng trong lành, tốt cho đường hô hấp.
- Tập những môn thể thao nào? Các môn aerobics và bài tập về tim mạch như chạy bộ, đi bộ, bơi lội, đạp xe đạp...
- Tập bao lâu? Khoảng 30-60 phút, mỗi tuần nhiều hơn 3 lần nếu bạn thật sự muốn giảm cân nhanh.
- Mẹo nhỏ: Ăn sau khi tập khoảng 2 tiếng sẽ rất tốt cho quá trình tiêu hóa và chuyển hoá năng lượng.
2. Củng cố sự phối hợp. Không có thời gian tối ưu để tập luyện sự phối hợp. Buổi trưa (12-13 giờ) tạm thời được xem là tốt nhất.
- Các môn: luyện tay và mắt bằng cách bắt bóng (bóng bàn) hay cân bằng cơ thể với các tư thế của môn yoga.
- Bạn có thể tập bao lâu: tuỳ theo sức khoẻ, nhưng càng nhiều càng tốt.
Mẹo nhỏ: Ăn trước khi tập 1 tiếng để giúp cơ thể không bị phân tâm cho 2 quá trình tập luyện và tiêu hoá.
3. Tạo cơ săn chắc: Bạn nên tập vào buổi xế chiều hoặc tối vì lúc này cơ thể đã có đủ năng lượng từ các bữa ăn trong ngày.
Đối với những môn thể thao như tập tạ, phụ nữ tránh chọn loại nặng vì sẽ tạo những cơ bắp cuồn cuộn. Bạn chỉ cần tập các bài giúp săn chắc cơ. Phương pháp tập tạ xen lẫn giữa bài cho tay và cho chân sẽ giúp tăng cường sự chuyển hoá, tiêu hao năng lượng trong một ngày, ngay cả khi ngủ.
- Tập bao lâu? Tập 3 lần mỗi tuần cho tay và chân, mỗi bộ phận khoảng 3 động tác.
- Mẹo nhỏ: Khi tập tạ, có thể ít vận động hơn các môn thể thao khác nên bạn đừng lo lắng vì đã dùng bữa trưa hay ăn xế quá nhiều. Đối với môn này, bạn có thể tập ngay cả khi trong người cảm thấy không thoải mái.
|
|
|
Post by NHAKHOA on Mar 14, 2009 14:18:05 GMT -5
Mãn kinh: Giai đoạn thú vị trong cuộc đời phụ nữFriday, January 23, 2004 (Theo BBC)
Nhiều thập kỷ trước, phần lớn phụ nữ thường qua đời trước khi đạt tới tuổi mãn kinh, và số còn lại coi đó là dấu hiệu của tuổi già. Song ngày nay, phái đẹp chỉ coi hiện tượng này là màn mở đầu cho một giai đoạn mới đầy bất ngờ và thú vị trong cuộc đời.
Mãn kinh thường xảy ra ở độ tuổi 51, song cũng có thể đến ở tuổi 40 hoặc 60. Nó mang đến cho bạn những biến đổi sâu sắc về thể chất. Khi bước vào tuổi mãn kinh, bạn cần bình tĩnh lường trước các triệu chứng và chuẩn bị những kiến thức cơ bản giúp bạn giữ được nét cân đối và sức sống.
Tại sao cơ thể người phụ nữ thay đổi vào thời kỳ mãn kinh?
Buồng trứng là nơi sản sinh hoóc môn sinh dục nữ oestrogen - chất cần thiết cho sự rụng trứng. Oestrogen giúp duy trì hoạt động của nhiều bộ phận cơ thể. Khi người phụ nữ già đi, hoạt động sản xuất trứng của buồng trứng dần suy kiệt. Khi đó, sự sản sinh oestrogen cũng mất đi, khiến cho lượng hoóc môn này trong cơ thể sụt giảm đáng kể (mặc dù một số ít bộ phận khác cũng sản sinh oestrogen).
Sự thiếu hụt oestrogen có thể gây ra:
+ Các triệu chứng ngắn hạn như:
- Trào huyết và toát mồ hôi về đêm.
- Khó ngu.Ư
- Mệt mỏi.
- Ðau đầu.
- Suy nhược, dễ thay đổi và cáu giận.
- Trí nhớ và sức tập trung giảm sút.
+ Một số triệu chứng trung gian như:
- Da khô và mỏng hơn.
- Khó chịu trong âm đạo, khô và khó đi tiểu.
+ Những thay đổi lâu dài như dễ mắc bệnh tim, loãng xương, Alzheimer và ung thư ở bộ máy sinh sản.
Hãy học cách nhận biết các triệu chứng ngắn hạn:
Ít nhất 70% phụ nữ trải qua những triệu chứng ngắn hạn khi bắt đầu bước vào tuổi mãn kinh.
a. Hãy tập xác định triệu chứng bằng cách ghi nhật ký về cảm xúc và tình trạng sức khỏe.
b. Cố nhìn nhận vấn đề như là một việc diễn ra tạm thời.
c. Tìm kiếm những liệu pháp giúp bạn đối phó với các triệu chứng, từ phương pháp thư giãn cho đến thảo mộc.
Biết xử lý với những triệu chứng trung gian:
Hiện nay có vô số giải pháp hạn chế tình trạng khô da và âm đạo. Hãy tham vấn bác sĩ và tham khảo bạn bè. Nếu các triệu chứng không dứt, đặc biệt là tình trạng âm đạo khó chịu và đi tiểu khó, cần đi khám ngay.
Hãy chú ý đến chứng loãng xương:
Việc tự phát hiện chứng loãng xương không dễ dàng, chỉ khi xuất hiện các tổn thương nghiêm trọng như giảm chiều cao, đau lưng và dễ bị gãy xương.
Hãy tự chẩn đoán bệnh dựa vào danh sách sau:
- Tiền sử gia đình.
- Mãn kinh sớm (trước 40 tuổi).
- Qua phẫu thuật cắt tử cung trước 45 tuổi.
- Sử dụng steroids (để điều trị bệnh hen suyễn...)
- Rối loạn tiêu hóa triền miên.
- Có tiền sử gãy xương.
- Lượng canxi hấp thu thấp ở tuổi trưởng thành.
- Hút thuốc lá.
- Ít vận động.
- Ít tiếp xúc với ánh sáng mặt trời.
Nếu phát hiện có dấu hiệu loãng xương, hãy đi chụp xương để xác định chính xác bệnh. Ngoài ra, cần đảm bảo chế độ dinh dưỡng giàu canxi. Việc này không giúp hạn chế mất xương, song sẽ khiến cho phần xương còn lại trở nên vững chắc hơn. Kiên trì luyện tập những môn thể thao như chạy, đi bộ, nhảy... Tham vấn bác sĩ một số thuốc giúp xương chắc khỏe hơn.
Cẩn thận với trái tim của bạn:
Bên cạnh yếu tố mãn kinh, một số yếu tố như hút thuốc lá, có tiền sử bệnh tim trong gia đình, huyết áp cao hoặc béo phì.
Biện pháp phòng ngừa:
- Hạn chế tối đa những yếu tố có thể dẫn đến bệnh kể trên.
- Ăn nhiều rau quả tươi màu đỏ và da cam nhằm bổ sung các chất chống oxy hóa.
- Tăng cường luyện tập thể thao.
- Kiểm tra mức độ cholesterol và lipid máu.
Phòng ngừa các bệnh ung thư liên quan đến bộ máy sinh sản:
a. Ung thư vú:
- Cần kiểm tra vú ít nhất một lần/ tháng.
- Ðừng quên chụp nhũ ảnh ở độ tuổi 50-64.
b. Ung thư tử cung:
Chẩn đoán qua hiện tượng chảy máu bất thường.
c. Ung thư buồng trứng:
Cần thận trọng nếu bạn có tiền sử ung thư buồng trứng hoặc ung thư vú trong gia đình, bị vô sinh hoặc đau bụng bất thường.
d. Ung thư cổ tử cung: Cần làm xét nghiệm kính phết 3 năm một lần để sớm phát hiện bệnh.
Thận trọng khi dùng liệu pháp hoóc môn thay thế (HRT).
Liệu pháp hoóc môn thay thế (HRT) giúp bổ sung oestrogen cho cơ thể. Một số nghiên cứu cho rằng liệu pháp này có thể hạn chế được các triệu chứng trong thời kỳ mãn kinh và giảm nguy cơ loãng xương. Song một vài nghiên cứu khác lại khẳng định HRT không có lợi cho tim và có thể làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú.
|
|
|
Post by NHAKHOA on Apr 5, 2009 14:35:04 GMT -5
Từ khóa: Plastic migration Lon Hộp Plastic Và Lò Vi Ba Nguyễn thượng Chánh; DVM KhoaHoc.net Trong cuộc sống hằng ngày, lon hộp plastic dùng chứa thực phẩm và lò vi ba (microwave oven) là những vật dụng rất cần thiết và rất tiện lợi cho mọi gia đình. Bạn thử mở kệ bếp ra mà xem. Ôi thôi, sao mà lỉnh kỉnh đủ thứ! Nào là lon bơ, nào là hộp margarine, hộp sauce, hộp cà rem, hộp tofu, hủ yogurt vv… tất cả đều là hộp không! Đây là “chiến lợi phẩm” mà các bà xả kim chỉ đã cắt ca cắc cũm chịu khó giữ lại để lỡ lúc nào cần đến thì có sẵn mà xài. Ngoài lon hộp ra, chúng ta cũng phải kể đến một sản phẩm đặc biệt khác nữa, đó là màng nhựa plastic (cling wrap, pelliculle plastique, pelli moulante). Loại màng này được sử dụng rộng rãi để bịt tô canh, đĩa đồ xào, hay để bao miếng bánh lại cho nó vừa hạp vệ sinh mà cũng lại vừa đẹp mắt nữa. Trong chợ, màng nhựa cũng được thấy sử dụng để bao để gói thực phẩm, thịt thà, rau cải, bánh trái, và fromage vv… Sự tiện ích của đồ nhựa plastic đã quá rõ ràng rồi, nhưng gần đây một số nhà khoa học trên thế giới đã cảnh giác mọi người về mối nguy cơ của chất plastic có thể gây hại đến sức khỏe chúng ta. Đặc biệt là khi thực phẩm tiếp xúc trực tiếp với plastic lúc được đem hâm nóng trong lò vi ba. Trong điều kiện này, nhiệt độ có thể giúp cho một số chất độc trong màng nhựa có điều kiện nhiễm vào thức ăn. Khoa học gọi đây là hiện tượng di chuyển plastic (plastic migration). Cơ quan trách nhiệm về vệ sinh an toàn thực phẩm Joint Food Safety and Standards Group của Anh Quốc đã đặc biệt quan tâm và nghiên cứu vấn đề này từ nhiều năm nay rồi. Các chất liệu nào nguy hiểm nhất? Nói chung thì các vật dụng nào có chứa chất plastic PVC (polyvinyl chloride) đều được xem là nguy hiểm hết! Để tăng tính chất dẻo dai của sản phẩm, nhà kỹ nghệ thường cho trộn vào thêm chất di-(ethylhexyl) adepate, gọi tắt là DEHA. Dưới tác dụng của nhiệt độ cao lúc hâm trong lò vi ba, chất DEHA được thải ra từ màng nhựa và nhiễm vào thức ăn. Thực phẩm càng chứa nhiều dầu mỡ thì phản ứng càng mạnh hơn. Mức độ tiếp xúc giữa màng nhựa và thực phẩm cũng như thời gian hâm nóng lâu hay mau, quyết định độ nhiễm của chất độc nhiều hay ít . DEHA ảnh hưởng thế nào đến sức khỏe? DEHA được các nhà khoa học gọi là chất làm xáo trộn hoạt động nội tiết tố (endocrine disrupter). Bởi lý do này nên nó ảnh hưởng đến chức năng của tuyến sinh dục, làm giảm lượng tinh trùng sản xuất, tạo ra quái thai, và có thể gây ra cancer nữa. Ghê chưa! Nhưng thật ra, đây mới chỉ là kết quả thí nghiệm ở trên loài chuột mà thôi. Mối liên hệ giữa chất DEHA và sức khỏe con người vẫn còn là một giả thuyết nằm trong vòng tranh luận và dự đoán mà thôi. Vẫn còn trong vòng tranh luận! Kỹ nghệ plastic Hoa Kỳ có cho biết là hai cơ quan US Food & Drug Administration (FDA) và Environmental Protection Agency (EPA) đều xác nhận là công chúng không nên lo ngại vì lẽ các sản phẩm plastic hiện có trên thị trường đều đã được thông qua các thủ tục xét nghiệm chặt chẽ. Tất cả đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện an toàn mà cơ quan FDA đã đòi hỏi. Tuy vậy vẫn có một số người còn hoài nghi. Hiệp hội các nhà tiêu thụ Hoa Kỳ (Consummers Association) cũng như một số nhà khoa học trên thế giới đều e dè thận trọng trước những lời tuyên bố đầy lạc quan của chính phủ và của giới kỹ nghệ đã đưa ra. Tại Canada thì sao? Santé Canada không mấy quan tâm về vấn đề plastic cho lắm vì lẽ chưa có báo cáo cụ thể nào nói lên hiểm họa cấp thời của plastic cả. Tuy vậy vẫn có một số nhà sản xuất vật liệu plastic như Dow Brands (Saran wrap, Handi wrap, Strech’n seal) nhằm mục đích quảng cáo, đã cẩn thận cho ghi chú thêm cách sử dụng an toàn trên sản phẩm của họ bán ra. Chẳng hạn như đối với hiệu Saran Wrap, chúng ta thấy có ghi câu: dùng để bịt thức ăn lúc hâm nóng trong lò vi ba trong một thời gian lâu dài ở nhiệt độ cao! Hiệu Handi Wrap thì có ghi câu: chỉ được sử dụng để hâm nóng trong một thời gian ngắn mà thôi! Strech’n Seal: không được đem dùng trong lò vi ba! Cũng có những hiệu khác chỉ nêu những câu chung chung như: rất hữu ích, tiện lợi và lý tưởng cho lò vi ba! Tại Quebec có 9 hiệu màng nhựa có mang câu chỉ dẫn đặc biệt, chẳng hạn như: có thể dùng cho lò vi ba (aussi pour micro onde, microwaveable). Câu này do hiệp hội các nhà sản xuất hàng bách hóa (Grocery Products Manufacturers of Canada) tự đặt ra chớ không có điều lệ nào của chính phủ quy định hết. Nên cẩn thận! Hiện tượng di chuyển plastic còn rất mới mẻ, chưa rõ rệt cho lắm. Người thì nói nguy hiểm, người thì nói không. Nếu chất plastic thật sự có hại thì cũng cần hội thêm nhiều yếu tố khác nữa mới có thể ảnh hưởng thật sự đến sức khỏe, chẳng hạn như phải ăn thường xuyên trong một thời gian thật lâu dài. Thôi thì tốt hơn hết là chúng ta nên cẩn thận và đề phòng: 1* Chỉ sử dụng loại vật dụng plastic nào có ghi chú câu: For Microwave use, Microwave safe, Microwaveable, Aussi pour Four à Micro Onde vv… Tuyệt đối không sử dụng lại các lon, hộp cũ đã được dùng để đựng các thực phẩm lạnh như hộp đựng tàu hũ, hộp bơ, hộp margarine, hủ đựng yogurt, hộp cà rem vv…để đựng thức ăn và đem hâm nóng trong lò vi ba. Ở nhiệt độ cao, chúng sẽ bị méo mó, tiết ra mùi hôi lạ thường và đồng thời cũng tiết ra những chất nguy hại cho sức khỏe nữa. 2* Mỗi khi cất vào tủ lạnh cũng vậy, nên tránh có sự tiếp xúc trực tiếp giữa màng nhựa với thức ăn, đặc biệt là với những món có chứa nhiều mỡ dầu. 3* Nhớ gỡ bỏ màng nhựa đậy bịt thức ăn mỗi khi đem hâm nóng trong lò vi ba. Nếu có muốn giữ màng này lại thì phải chừa hở một khoảng cách độ 2.5 cm trên mặt thức ăn, và nên để hở một góc cho hơi nước dễ bốc ra ngoài. 4* Không nên đem hâm nóng trong lò vi ba các vật liệu bằng chất styrofoam, là chất liệu xốp nhẹ mà có người thường hay gọi là chất mốp. Lon hộp bằng styrofoam sẽ bị mốp méo, bốc múi hôi khó chiụ và thải ra chất styrene không tốt cho sức khỏe 5* Trước khi làm tan đông (defrost) thịt trong lò vi ba, nhớ gỡ bỏ màng nhựa cũng như vỉ đựng bằng styrofoam ra ngoài . 6* Không nên bỏ các loại rau cải như broccoli, bông cải trắng vv… vào bao plastic để đem hâm nóng trong lò. Kết luận Phải chăng đây là mặt trái của sự tiến bộ khoa học? Hình như ngày nay các trường hợp bị cancer xuất hiện nhiều hơn xưa! Có lẽ thật đúng vậy, nhưng cũng có thể là nhờ vào các phát minh không ngừng của khoa học mà các phương pháp chẩn đoán bệnh cũng chính xác hơn ngày xưa, lại nữa con người cũng có khuynh hướng sống lâu hơn nên bệnh cancer càng dễ được phát hiện ra. Thỉnh thoảng, những tin giựt gân loại này thường được tung ra làm mọi người hoang mang lo ngại. Đúng hay sai? Không ai dám khẳng định trả lời một cách chính xác được, nhưng rồi dần dần chúng ta cũng phải quên nó đi và tiếp tục cuộc sống bình thường của chúng ta mà thôi! Que sera, sera ….whatever will be, will be! Montreal, June 23, 2006
|
|
|
Post by NHAKHOA on Apr 18, 2009 13:31:14 GMT -5
Thuốc chống ung thư mới: Hiệu quả tiêu diệt tế bào ưng thư hơn gấp 200 lần so với các thuốc hiện nay Theo ScienceDaily (2009) - Một đội ngũ 24 nhà nghiên cứu từ Hoa Kỳ, Châu Âu, Ðài Bắc và Nhật Bổn, dẫn đầu bởi các khoa học gia trường Ðại Học Illinois, đã tạo ra một chế phẩm mới chống ung thư có hiệu quả gấp 200 lần trong việc tiêu diệt các tế bào khối u, so với những loại thuốc được sử dụng hiện nay trong những thử nghiệm lâm sàng. Chế phẩm mới chống ưng thư được gọi là các nhóm thuốc bisphosphonates. Thuốc này ban đầu đã được phát triển để chữa trị bệnh loãng xương và các bệnh về xương, nhưng gần đây đã phát hiện thấy còn có cả tiềm năng chống bệnh ung thư và tăng cường miễn dịch. Nhiều năm qua các khoa học gia đã cố gắng để thiết kế ra loại thuốc để ngăn chặn các tế bào khối u, tập trung vào một loại protein gọi là Ras, vì gần một phần ba các loại ung thư ở người có liên quan đến một loại đột biến trong gene Ras, đột biến này đã gây ra tín hiệu làm cho các tế bào phát triển lệch lạc. Theo kết quả nghiên cứu, Bisphosphonates tác động với các enzymes, được gọi là FPPS và GGPPS, các enzymes này là nguyên nhân của đột biến trong gen Ras của tế bào. Vì thế, thuốc chống ung thư mới đã khống chế sự xuất hiện của các enzymes trên, giúp tác động một cách hữu hiệu để giết chết các tế bào ung thư. Khi được sử dụng kết hợp với liệu pháp hormone trong các thử nghiệm lâm sàng gần đây, thuốc bisphosphonate đã làm giảm đáng kể sự tái phát của bệnh ung thư vú đối với những phụ nữ ở giai đoạn tiền mãn kinh. Kết quả tương tự cũng được báo cáo trước đó đối với bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Theo đánh giá của nhóm nghiên cứu cho biết: loại thuốc mới có khoảng 200 lần hiệu quả hơn các loại thuốc được sử dụng trong những thử nghiệm lâm sàng hiện nay rất hiệu quả dùng để tiêu diệt các khối u cũng như trong kích hoạt gamma delta T-tế bào để diệt các tế bào ung thư. Kết quả nghiên cứu được công bố tuần này trong tạp chí của Hiệp Hội Hóa Học Hoa kỳ.
|
|
|
Post by NHAKHOA on Apr 18, 2009 13:45:45 GMT -5
Ảnh hưởng của Đạo Luật Cải tổ Y tế với mọi người Tuesday, March 23, 2010 Chương trình cải tổ y tế một khi được thi hành, sẽ bắt đầu có hiệu lực đầy đủ từ 2014 để tới năm 2019 mở rộng việc bảo hiểm cho thêm 32 triệu người ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên khi được Tổng Thống Obama ký ban hành thành luật, ngay từ bây giờ đã có nhiều ảnh hưởng đến tất cả mọi công dân Mỹ. Ảnh hưởng tức thời: -Các hãng bảo hiểm không còn được phép giới hạn số tiền trả cho việc chữa trị của khách hàng. Quy định này đặc biệt quan trọng với những người có bệnh nặng, chẳng hạn như ung thư, mà tiền thuốc rất đắt. -Những người đã bị các hãng từ chối bán bảo hiểm do tình trạng bệnh hoạn sẵn có, được mua bảo hiểm tạm thời từ nay cho đến năm 2014 khi luật được thi hành đầy đủ. Một ngân khoản $5 tỷ được ứng cho việc này. -Các hãng phải cung cấp bảo hiểm cho thanh niên không còn lệ thuộc gia đình cho tới năm 28 tuổi. Quy định này giúp cho sinh viên mới ra trường và người còn tìm việc. -Mỗi người già được thêm $250 trả tiền mua thuốc bù vào khoảng trống mà Medicare Part D không chi trả. Tương lai khi đã sử dụng hết số tiền được mua thuốc trong Medicare Part D ($2850), sẽ không còn phải trả 100% tiền túi như hiện nay mà sẽ được giảm dần và tới năm 2020 chỉ còn phải trả 25%. Ảnh hưởng sau 4 năm nữa: -Từ năm 2014, hầu hết mọi người dân Mỹ phải mua bảo hiểm, nếu không sẽ bị phạt. -Tiền phạt khởi đầu là 1% thu nhập cá nhân hoặc tối thiểu $95 nếu số nào lớn hơn, sau đó đến năm 2016 sẽ tăng lên tới 2.5% thu nhập hoặc tối thiểu $695. Mức tiền phạt giới hạn cho cả gia đình là $2.085. -Nếu không thể trả tiền mua bảo hiểm vì quá nghèo, thì có thể đủ điều kiện để được vào Medicaid, chương trình bảo hiểm sức khỏe của liên bang cho người nghèo và tàn phế. Chương trình này sẽ được mở rộng đáng kể từ 2014. -Những gia đình nghèo được miễn giảm thuế, hoặc nếu gồm 4 người có thu nhập dưới $88,000 một năm, được tài trợ để mua bảo hiểm. -Tiểu thương, công ty nhỏ được hưởng điều kiện dễ dãi và nhận trợ giúp trong việc mua bảo hiểm sức khỏe. Cơ sở dưới 50 người không bị phạt nếu không mua bảo hiểm cho nhân viên. Cơ sở dưới 25 người với mức lương dưới $50,000 được giảm thuế 35% chi phí đóng bảo hiểm năm nay và 50% năm 2014. -Cơ sở trên 50 người không mua bảo hiểm cho nhân viên có thể bị phạt tới $2,000 cho mỗi nhân viên làm toàn thời gian. -Chương trình y tế cải tổ tốn $940 tỷ trong 10 năm. Nhưng do tăng tiền thuế công ty và giảm chi phí trong chương trình Medicare Advantage , ngân quỹ liên bang dự trù sẽ tiết kiệm được $138 tỷ theo ước lượng của Văn phòng Ngân sách Quốc Hội. Người có thu nhập cao sẽ phải trả thêm thuế. -Tiền mua bảo hiểm tăng hay giảm hãy còn là đề tài tranh luận. Người bệnh hoạn có lẽ sẽ được mua rẻ hơn hiện nay vì các hãng bảo hiểm không được phép tính thêm lệ phí với họ. Nhưng người khỏe mạnh có thể phải mua bảo hiểm đắt hơn. Người lớn tuổi bảo hiểm đắt hơn người trẻ nhưng cách biệt không nhiều. (HC) ******************************** Chứng áp huyết cao làm tăng nguy cơ đau thận Saturday, April 11, 2009 HealthDay News - Khi áp huyết càng cao thì người ta càng có nhiều nguy cơ mắc những bệnh thuộc về thận, theo một cuộc nghiên cứu mới. Một cuộc phân tích những số liệu từ chương trình Kidney Early Evaluation Program (KEEP - Chương Trình Ước Lượng Thận Sớm) của tổ chức National Kidney Foundation cũng tìm thấy những bằng chứng rằng bệnh đau thận kinh niên càng ở giai đoạn trầm trọng hơn khi áp huyết của bệnh nhân vượt lên cao hơn mức 130 mmHg. KEEP là một chương thiện nguyện chuyên giúp dân chúng trong các cộng đồng dò tìm bệnh thận, được thành lập trong năm 2000 để thúc đẩy sự cảnh giác về bệnh này trong số những người có nguy cơ cao, đồng thời cung cấp dịch vụ thử nghiệm miễn phí và những thông tin có tính cách giáo dục. Kể từ khi khởi sự, chương trình này đã dò tìm bệnh thận cho khoảng 125,000 người mắc bệnh tiểu đường, hoặc có áp huyết cao, hoặc có tiểu sử gia đình về bệnh tiểu đường, bệnh thận, áp huyết cao. Trong số những người nói trên, gần một phần ba có những triệu chứng liên quan tới bệnh thận. Trong phúc trình, các nhà nghiên cứu đã so sánh những số liệu của chương trình KEEP với số liệu thu thập từ cuộc khảo sát U.S. National Health and Nutrition Examination Survey (Khảo Sát Sức Khỏe và Dinh Dưỡng Toàn Quốc Hoa Kỳ), và họ nhận thấy những người Mỹ gốc Phi Châu tham gia chương trình KEEP có tỉ lệ cao hơn về bệnh thận kinh niên nếu những người đó cũng phì mập, hoặc mắc bệnh tiểu đường, hoặc có áp huyết cao. Người cầm đầu cuộc nghiên cứu, Bác Sĩ George L. Bakris, thuộc trường đại học University of Chicago, và các đồng nghiệp cũng nhận thấy rằng có nhiều người không nói cho bác sĩ của họ biết về triệu chứng đau thận khi họ mắc chứng “microalbuminuria” - trong nước tiểu có số lượng nhỏ của đạm tố albumin, là dấu hiệu cho thấy thận không còn đủ khả năng lọc chất phế thải. Các nhà nghiên cứu nói rằng, đây là lý do cần nên thử nghiệm để dò tìm chứng microalbuminuria cho những người có áp huyết cao. “Những chương trình dò tìm có mục đích cải thiện sức khỏe của dân chúng, gia tăng sự hiểu biết và sự truyền đạt với bác sĩ, để họ được điều trị và cải thiện sức khỏe,” Bác Sĩ Bakris và các đồng nghiệp viết trong phúc trình đã đăng trong số Tháng Tư 2009 của đặc san American Journal of Kidney Diseases (Ðặc San Mỹ về Những Bệnh Thận). (n.m.)
|
|
|
Post by NHAKHOA on May 27, 2010 13:39:15 GMT -5
Người có khả năng trị được mọi loài rắn độc cắnTuesday, May 25, 2010 THANH HÓA - Ông Hà Xuân Tỉnh ở thôn Trảy, xã Cẩm Thạch, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa, được người dân trong vùng mệnh danh là “nhà khắc tinh nọc độc của rắn”. Báo Dân Trí cho hay, đơn giản bởi ông có một phương thuốc gia truyền giải được nọc độc của các loại rắn... Cho đến nay, ông Tỉnh không nhớ nổi mình đã cứu sống được bao nhiêu người bị rắn độc cắn. Hầu hết những người bị rắn độc cắn đến ông đều chữa khỏi, chỉ cần lúc ấy nạn nhân còn uống được thuốc. Ông khẳng định ông chưa chịu thất bại trước bất cứ một trường hợp nào. Ông Hà Xuân Tỉnh, người có khả năng chế ngự mọi nọc độc của loài rắn. (Hình: Báo Dân Trí) Ông Tỉnh nói với báo Dân Trí, “Có những trường hợp bị rắn độc cắn khi đến nhà tôi chẳng còn hay biết gì nữa, toàn thân tê liệt, chỉ có tim là còn thoi thóp những nhịp đập cuối cùng. Thế nhưng khi tôi cho uống thuốc vào chỉ vài tiếng sau là bệnh nhân đã hồi phục sức khỏe, trở lại bình thường”. Có những trường hợp đi rừng bị rắn độc cắn vào đầu, không có cách nào để ngăn chặn chất độc chạy vào tim, khi đưa đến nhà ông Tỉnh thì đã ở vào tình trạng nguy kịch, nhưng ngay sau đó nạn nhân như được hồi sinh chỉ với một chén thuốc của ông. Ông Tỉnh cho biết vài lần cứu người như trường hợp anh Bùi Văn Hải ở thôn Thủy, xã Cẩm Thạch bị rắn hổ chúa nặng 4.8kg cắn vào tay. Ðây là loại rắn có nọc cực độc nên ngay sau khi bị cắn, toàn thân anh Hải đã tê liệt không còn biết gì. Nhưng “còn nước còn tát”, mọi người cấp tốc đưa anh Hải đến nhà ông Tỉnh, lúc ấy tim của anh Hải dường như đã ngừng đập nhưng chỉ một lúc sau ông Tỉnh đã giúp anh Hải qua cơn nguy kịch trở lại bình thường. Vẫn theo báo Dân Trí, ‘Nói về bài thuốc giải nọc độc rắn thần kỳ của mình, chính ông Tỉnh cũng không biết có từ bao giờ. Chỉ biết rằng nó đã tồn tại bao đời nay và ông có được là do người cha truyền lại’. Ông kể, tổ tiên của gia đình ông có quy định rằng, chỉ khi nào thế hệ trước qua đi thì thế hệ sau mới được sử dụng phương thuốc ấy để cứu người bị rắn cắn và mỗi thế hệ trong gia đình chỉ có một người được truyền lại phương thuốc ấy. Vì thế, mặc dù ngay từ nhỏ ông Tỉnh đã theo cha vào rừng hái thuốc và được cha chỉ cho các loại cây tạo nên phương thuốc “thần” nhưng ông không được “hành nghề” khi cha ông còn sống. Ông Tỉnh tâm sự: “Ðây là phương thuốc gia truyền và theo quy định của tổ tiên nó chỉ dùng để cứu người chứ không được phép dùng vì bất kỳ mục đích nào khác”. Mỗi lần có người bị rắn độc cắn đến nhờ cứu giúp, ông liền đi hái thuốc đem bỏ vào cối giã ra rồi đổ nước sôi vào, sau đó lấy nước cho bệnh nhân uống còn phần bã mang đắp vào vết rắn cắn. Thời gian chữa trị tùy thuộc vào từng trường hợp, nếu nhẹ thì chỉ vài tiếng đồng hồ, còn trường hợp nặng thì phải mất 1- 2 ngày bệnh nhân mới có thể bình phục. Hạn chế của phương thuốc này là không thể để dự trữ được thuốc trong nhà. Nếu mang những thảo dược đó phơi khô, dự trữ, chúng sẽ không còn tác dụng nữa. Ðặc biệt nữa là cây chỉ mọc tự nhiên ở trên rừng chứ không sống được trong vườn nhà, trong điều kiện được con người chăm sóc. Bởi vậy mỗi lần có bệnh nhân đến, ông Tỉnh lại phải chạy vào rừng đi hái thuốc. Do nhà ông Tỉnh ở ngay dưới chân một khu rừng nên việc đi hái thuốc cũng khá tiện lợi, ông biết rõ được chỗ mọc của các cây thảo dược này.
|
|
|
Post by NHAKHOA on May 27, 2010 13:45:26 GMT -5
Tìm hiểu và chữa trị bệnh tự kỷ (autism) Tuesday, April 06, 2010 Giúp phụ huynh phát hiện sớm để chữa trị SACRAMENTO (NV) - Theo thống kê của Trung Tâm Phòng Chống và Kiểm Soát Bệnh, hiện cứ 110 trẻ em ở Hoa Kỳ thì có một em bị bệnh tự kỷ (autism). Bệnh do tình trạng kém phát triển và não bộ gặp khó khăn trong các chức năng hoạt động bình thường. Hiện chưa có cách chữa lành, nhưng nếu được kiểm tra và chẩn bệnh khi còn nhỏ, các kỹ năng học và giao tiếp có thể tiến bộ đáng kể. Ðể kỷ niệm tháng 4 là “tháng nhận thức về bệnh Tự Kỷ,” Tổ Chức “First 5 California” mong phụ huynh và người chăm sóc trẻ nhận biết sớm các dấu hiệu sau đây của bệnh tự kỷ, ngõ hầu gia đình phát hiện và chữa trị sớm. Các dấu hiệu sớm của bệnh tự kỷ Trẻ em phát triển khác nhau, nhưng một số cần sự chăm sóc và đánh giá đặc biệt để các em phát triển một cách khỏe mạnh. Bệnh này khó chẩn đoán vì mỗi em mỗi khác. Nên đưa con em đi bác sĩ nếu phụ huynh thấy các em biểu lộ bất cứ những dấu hiệu nào sau đây: Không thủ thỉ hoặc cười cho đến khi được sáu tháng tuổi. Khó khăn trong việc ngồi, đứng lên, hoặc với tới các đồ vật khi được một tuổi. Không nói được các chữ đơn giản như “mẹ” hoặc “ba” khi một tuổi. Không quay đầu lại để theo dõi các âm thanh hoặc tiếng nói. Không phản ứng với tiếng ồn. Lặp đi lặp lại những hành vi nhất định, kể cả những hành vi có hại như đập đầu. Không nhìn thẳng vào mắt hoặc ít khi nhìn thẳng vào mắt người khác và muốn ở một mình. Không chơi các trò chơi như trốn tìm giấu mặt hoặc “giả vờ” (chẳng hạn giả vờ đút thức ăn cho búp bê). Không có khả năng nói hoặc bất cứ khả năng giao tiếp xã hội nào. Can thiệp và chữa trị sớm Bằng cách hỗ trợ ở tuổi còn nhỏ, khi bộ não vẫn còn đang phát triển - từ khi mới sinh đến ba tuổi - phụ huynh có thể giúp trẻ em làm giảm các ảnh hưởng của bệnh tự kỷ đến khi em bắt đầu vào mẫu giáo. Một số cách chữa trị thông thường nhất là điều trị khả năng nói, chương trình ăn uống, và các phương pháp điều trị tập trung vào việc giúp cải thiện các mối quan hệ. Ðể biết thêm thông tin, xin liên lạc với First 5 California ở số (800) KIDS-025 hoặc ghé thăm www.first5california.com/parents.
|
|
|
Post by NHAKHOA on May 27, 2010 13:47:17 GMT -5
Nhiều bác sĩ cho bệnh nhân thử nghiệm y khoa vì không muốn bị kiện Friday, April 16, 2010 NguoiVietOnline NEW YORK (AP) - Theo một cuộc nghiên cứu mới, một con số đáng kể các bác sĩ về tim - cứ bốn người thì có khoảng một người - nói họ yêu cầu các thử nghiệm y khoa có thể không cần thiết vì sợ bị kiện cáo. Gần 600 bác sĩ được thăm dò trong cuộc nghiên cứu nhằm xác định mức độ mạnh bạo khi họ chữa trị các bệnh nhân, và liệu các vấn đề không phải y khoa có ảnh hưởng tới các quyết định của họ hay không, khi họ yêu cầu những vụ thử nghiệm tim có tính cách xâm phạm cơ thể. Hầu hết nói họ không bị ảnh hưởng bởi những thứ như lợi lộc tài chánh hoặc những mong muốn của bệnh nhân. Nhưng khoảng 24% các bác sĩ nói họ đã khuyến cáo việc thử nghiệm bởi vì họ lo ngại về những vụ kiện cáo về sai sót nghề nghiệp. Khoảng 27% nói họ đã làm như vậy bởi vì họ nghĩ các đồng nghiệp của họ sẽ thực hiện vụ thử nghiệm. Các bác sĩ điều trị bệnh nhân của họ một cách mạnh bạo thường bị ảnh hưởng bởi những lo ngại về sai sót nghề nghiệp hoặc áp lực của đồng nghiệp nhiều hơn là những người không mạnh bạo như vậy, cuộc nghiên cứu kết luận. Cuộc nghiên cứu được thực hiện để xem liệu các thái độ và thói quen của bác sĩ có thể đóng góp vào sự khác biệt lớn lao trong việc sử dụng và chi tiêu về săn sóc sức khỏe trên toàn quốc hay không. Ðể thực hiện cuộc nghiên cứu, các bác sĩ được yêu cầu khuyến cáo các thử nghiệm và điều trị cho ba nhóm bệnh nhân về tim theo tưởng tượng. Những câu trả lời của họ được sử dụng để tính điểm họ về mức độ mạnh bạo mà họ có khuynh hướng điều trị các bệnh nhân. Sử dụng các hồ sơ Medicare, những nhà nghiên cứu thấy rằng các bác sĩ có điểm cao thường hành nghề trong những vùng có chi tiêu tổng quát hoặc tỉ lệ cao hơn về một thử nghiệm tim, mặc dù các khác biệt tương đối nhỏ. Các bác sĩ cũng được hỏi liệu các vấn đề khác có khiến họ khuyến cáo việc thử nghiệm tim hay không - được gọi là một vụ thông tim (cardiac catherization) - trong đó một ống mỏng được luồn tới tim để kiểm tra xem tim hoạt động ra sao và chẩn đoán bệnh. Các nhà nghiên cứu cho rằng chú trọng vào việc giải quyết những lo ngại về sai sót nghề nghiệp có thể giúp giảm bớt những khác biệt liên quan đến vùng hành nghề. “Chúng ta cần một phương cách để các bác sĩ bớt sợ về chuyện đã không ra lệnh thực hiện một vụ thử nghiệm,” theo lời bà Lee Lucas, tác giả đứng đầu cuộc nghiên cứu và là phụ tá giám đốc của trung tâm nghiên cứu tại Trung Tâm Y Khoa Maine ở Portland. Sai sót nghề nghiệp y khoa là một phần trong cuộc tranh luận về cải tổ y tế, nhưng đã không nằm trong đạo luật được chấp thuận mới đây. Ðạo luật mới không bao gồm các chương trình thí điểm cho các tiểu bang để tìm những biện pháp thay thế cho những vụ kiện tụng. Các kết quả nghiên cứu ủng hộ chiều hướng tiến tới sự săn sóc sức khỏe đồng nhất hơn, và tránh việc trả tiền theo dịch vụ, và tìm cách cải tổ vấn đề sai sót nghề nghiệp, theo ông Kenneth Thorpe, một giáo sư về chính sách y tế tại Ðại Học Emory ở Atlanta. Bà Lucas nói các bệnh nhân có thể tiếp tay bằng cách không gây áp lực để các bác sĩ thực hiện những cuộc thử nghiệm. “Nếu bác sĩ nói bạn không cận thì đừng đòi hỏi,” bà nói. (n.n.)
|
|
|
Post by NHAKHOA on May 27, 2010 13:49:17 GMT -5
Botox chích nơi này nếp nhăn hiện ra nơi khácMonday, May 24, 2010 Ðường nhăn dọc theo sống mũi của hai nữ tài tử Renée Zellweger (trái) và Nicole Kidman (phải) sau khi chích Botox quanh khóe mắt, điều thường thấy nơi những người nổi tiếng. (Hình: Getty Images) NEW YORK (OC Register) - Chích Botox vào một khu vực trên khuôn mặt có thể gây nên những nếp nhăn mới xuất hiện ở chỗ khác. Hiện tượng này có thể thấy được trên mặt của các nữ tài tử thiết tha với Botox như Renée Zellweger, Nicole Kidman và Kim Cattrall, theo một giáo sư phụ tá trường Weill Cornell Medical College ở New York. Các bác sĩ ở quận Cam cũng nhận thấy điều tương tự xảy ra nơi bệnh nhân của họ. Sau tiến trình chích Botox, một bệnh nhân khi diễn tả cảm xúc bằng vẻ mặt, bắp thịt ở vùng có chích Botox không thể vận động được. Thay vì vậy các bắp thịt nằm kế cận co thắt lại làm tạo nên những nếp nhăn mới. Tiến trình này được gọi là “recruitment,” tức là lấp vào khoảng trống, hay sự bổ khuyết của các bắp thịt nằm kề bên. Về vấn đề này, bác sĩ giải phẫu da ở Fullerton, David Sire nói, “Chỉ cần chích thêm một lượng Botox nhỏ khác vào chỗ nhăn mới là giải quyết tất cả.” Bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ Joseph Cruise ở New Port Beach giải thích, “Cơ thể con người có khuynh hướng thích nghi. Khi một bắp thịt bị thương tổn, các bắp thịt khác sẽ đảm nhiệm chức năng của bắp thịt ấy. Tương tự như vậy ở những bắp thịt bị Botox làm tê liệt, điều này có thể giải thích được lý do vì sao các nếp nhăn mới thành hình ở gần nơi nguyên thủy.” Bác sĩ chuyên khoa về da David Becker, phụ tá giáo sư trường Weill Cornell Medical College ở New York từng mô tả hiện tượng này trong tập san Journal of Cosmetic Dermatology vào năm 2003. Trong số mới đây, BS Becker ghi nhận rằng, khi chích Botox để xóa các nếp nhăn quanh mắt, sẽ tạo nên những đường nhăn chạy dọc theo sống mũi. Theo ông, đó là điều thường thấy nơi những người nổi tiếng. (TP)
|
|