Post by NHAKHOA on Nov 28, 2006 17:12:58 GMT -5
BỆNH HÔI MIỆNG (BAD BREATH)
BSNK Anne-Marie Hòa Nguyễn
"Hôm nay cắp sách đến trường
Ngồi chung một ghế chuyện trò quen em
Dáng em xinh đẹp như tiên
Có chiếc răng giả bựa vàng bám quanh
Tươi cười em nói đôi lời
Hơi thở nồng nhiệt mọi người quay đi
Thương em anh nhắn đôi lời
Nên đi chữa trị, người đời bớt chê..."
Bài thơ trên diễn tả và so sánh một nụ cười và hơi thở một người mình yêu mến, Nhưng nếu bộ răng của bạn mà bị sún, sâu, hoặc tẽ ra và hơi thở của bạn quá nồng nàn thì là một cái nạn lớn có thể đưa tới việc nản lòng. Hội đồng Nha Khoa Mỹ (American Dental Association) phỏng đoán 50-65% người lớn (trong 85 triệu người Mỹ) bị chứng bệnh hôi miệng. Hằng năm, người Mỹ chi tiêu khoảng 1 tỷ Mỹ kim mỗi năm để mua sắm thuốc rửa miệng, kẹo the hoặc chewinggum để giữ cho thơm miệng. Những phẩm chất này chỉ công hiệu trong thời gian rất ngắn ngủi. Thuốc nước súc miệng (mouthwashes) chỉ công dụng trong khoảng 1 tới 3 giờ đồng hồ. Chúng ta cũng nên biết phần đông những bình thuốc tráng miệng đều có chất alcohol và có thể kích thích những mô phần trong miệng (Irritation of oral tissues) làm cho bệnh hôi miệng thành nặng hơn.
Miệng hôi, tiếng Mỹ thường gọi là bad breath hoặc danh từ trong chuyên khoa gọi là Halitosis. Chữ Halitosis xuất gốc từ tiếng Latinh – halitus là "hơi thở" và osis là "tình trạng". Hơi thở hôi là một vấn đề quen thuộc đối với các chuyên viên ngành nha và bệnh nhân. Có người tự giác, đến than với bác sĩ rằng mình bị hôi miệng. Thường hơn, người bị hôi miệng không biết miệng mình bị hôi. Tình trạng này có thể xảy ra trong mọi người ở mọi lứa tuổi và có thể nặng ở một số người, đến mức độ bị mọi người xa lánh. Bài viết này sẽ trình bày và dẫn giải những lý do đưa tới bệnh hôi miệng và cách thức điều trị căn bệnh này.
Các mùi gây khó chịu có thể do nhiều nguồn khác nhau trong cơ thể. Chứng bệnh nặng mùi có thể phát khởi từ khoang miệng (oral cavity), hốc mũi (nasal passages), đường khí quản (upper respiratory tract), hoặc phần trên của đường tiêu hóa (upper digestive tract). Người Việt Nam chúng ta thường tin và nghĩ rằng tình trạng hôi miệng xảy ra vì mình bị bệnh đau bao tử hoặc bệnh phổi. Những nghiên cứu cho thấy 85% căn bệnh hôi miệng đều phát xuất từ khoang miệng. 10% còn lại phát xuất từ đường hô hấp, đường tiêu hóa, hoặc những bệnh như bệnh viêm gan (cirrhosis), bệnh tiểu đường (diabetes), hoặc bệnh thận (kidney failure).
Có hai nguyên nhân gây ra bệnh hôi miệng: do miệng, và không do miệng. (bảng kê 1). Nói chung, với số người bị hôi miệng, nguyên nhân gây hôi nằm ngay trong miệng. Lý do chính gây ra bệnh hôi miệng là sự thối nát của vi trùng (bacterial putrefaction) và việc sản xuất những tính chất sulfur. Trong khoang miệng, chúng ta có hơn 300 loại vi trùng sống tương trợ lẫn nhau với những cấu tạo phức tạp chung quanh những mô bao bọc chân răng, lưỡi và cuống họng. Phần đông những vi trùng gây biến chứng bệnh hôi miệng đều thuộc loại "vi trùng kỵ khí, G-". Những vi trùng này chuyển hóa những chất axit amino tiết ra từ thực phẩm và những chất peptide từ nước bọt thành những khí chất phụ khác (gas by-products). Nghiên cứu cho thấy hydrogen sulfide (H2S), methyl mercaptan (CH3SH), dimethylsulfide (CH3SCH3), hoặc dimethyl disulfide là những chất sulfur dễ bay hơi có mùi hôi, là chủ yếu trong chứng hơi thở hôi. Những khí chất nêu trên còn được gọi chung trong sách vở là "hợp chất khí sulfur" (volatile sulfur" (volatile sulfur compounds, VSCs).
Khi nói tới khoang miệng, chúng ta cũng nên biết tầm quan trọng của nước bọt, nước miếng. Nước miếng có rất nhiều công dụng, chẳng hạn như có tính chất kháng vi khuẩn (antibacterial), kháng siêu vi trùng (antivirus), kháng trị nấm (antifungal), chất lượng dung hòa (buffering capacity), và tẩy sạch khoang miệng (mechanical cleansing of the oral cavity). Tóm lại, nước miếng được coi như là một loại xà bông rất tốt trong miệng, có tính chất sát trùng. Đồng thời, nước bọt còn có công dụng hòa tan (solvent) hoặc tận diệt những phẩm chất bay hơi nặng mùi (malodorous volative compounds). Nếu những chất nặng mùi này được hòa tan trong nước miếng thì sự cảm nhận mùi hôi cũng được giảm đi. Nhưng nếu mực nước miếng bị ngưng chặn hoặc giảm thiếu, thì lượng chất sulfur sẽ tăng trưởng và sẽ dễ dàng cảm nhận hơn. Phần nhiều chúng ta nuốt hoặc hít hơi vào trước khi phát âm. Bởi vì thế, chúng ta rất dễ dàng nhận ra những người bị bệnh hôi miệng khi họ đang "thao thao bất tuyệt".
I. Nguồn hôi do miệng (bảng kê 2)
A. Bệnh nướu răng – bệnh nha chu (gum diseases)
Bệnh răng và bệnh viêm lợi kinh niên (Chronic gingivitis) có lẽ là những nguyên nhân gây hôi miệng nhiều nhất, vì tạo điều kiện thuận lợi cho các vi trùng phát triển tối đa. Khi nướu răng đã bị nhiễm độc, tình trạng sẽ lây tới những hốc trống dưới nướu răng (pockets). Những hốc rỗng này là nơi chứa đựng nhiều loại vi trùng kỵ khí luôn xung đột với những kháng tố do cơ thể tạo ra. Đồng thời, những loại vi trùng G- gây ra bệnh nướu răng cũng sản xuất ra những lượng chất sulfur đưa tới tình trạng hôi miệng kinh niên (chronic bad breath) nếu tình trạng căn bệnh bị kéo dài.
B. Bệnh viêm sưng miệng (stomatitis)
Các tình trạng làm viêm khoang miệng hay lưỡi (vì bệnh hoạn, do dùng thuốc, hay do cơ thể thiếu các sinh tố) cũng có thể gây hôi miệng vì khi miệng, môi, lưỡi bị lở nứt thì thức ăn và vi trùng sẽ bám bíu vào những chỗ nứt lở này.
C. Sâu răng (dental caries)
Thông thường, sâu răng ít khi nào đưa tới tình trạng hôi miệng. Ngoại trừ khi răng bị mẻ khoảng lớn làm cho thức ăn bị dắt vào và bị ứ đọng lâu ngày. Những tình trạng khác như vết trám bị lồi lõm (faulty, overhanging restorations) hoặc mão răng bị hở (leaking crowns) cũng có thể làm cho thức ăn bám dính và ứ đọng lại.
D. Thuốc lá (smoking)
Hút thuốc lá loại nào cũng làm hôi miệng và dễ phát hiện nhất. Chất thuốc nicotine trong điếu thuốc lá bám trên mặt răng và lưỡi lâu ngày sẽ làm cho răng, lưỡi thâm nâu (nicotine stain) và bề mặt răng trở nên rám, tạo nên cơ hội thuận tiện cho trăm loại vi trùng bám vào chân răng và mặt lưỡi (bacterial attachment) và làm hư hoại. Hơn nữa, những tình trạng nguy cơ khác có thể xảy đến những người nghiện thuốc lá như là bệnh nướu răng đưa tới sự rụng răng, ung thư miệng, cuống họng, phổi, v.v...
E. Hơi thở buổi sáng (morning breath)
Trong lúc ta ngủ ban đêm, nước miếng gần như ngừng chảy. Không có nhiều nước miếng ban đêm, các vi trùng trong miệng sinh sôi nảy nở, tạo ra mùi hôi. Mùi hôi này phát xuất từ những vi trùng kỵ khí (anaerobic bacteria) ẩn núp trong những kẽ hở trong lưỡi và răng đã sản xuất ra chất hydrogen sulfide.
F. Khô miệng (dry mouth)
Miệng bị khô do bất cứ nguyên nhân nào cũng có thể làm miệng thêm hôi vì số lượng nước miếng bị giảm đi. Nghiên cứu cho thấy chứng khô miệng làm tăng thêm phần sản xuất những chất sulfur trong miệng. Những nguyên nhân đưa tới chứng giảm nước bọt như là dùng thuốc men, trị bệnh bằng tia phóng xạ (radiation therapy) chung quanh vùng quai hàm mặt, Sjogrens Syndrome, hoặc thở bằng miệng. Sự giảm xuất nước bọt cũng có thể xảy ra trong những người già vì những tuyến nước bọt bị bóp nhỏ hoặc teo đi.
G. Bộ phần răng giả (mouth appliances)
Những bộ răng giả, hoặc cố định (fixed) hoặc tháo ráp được (removable), là nơi các vụn thức ăn trôi dạt vào và ẩn nấp khi ta ăn uống. Nếu lâu ngày chúng ta không chà cọ, những vụn thức ăn hoặc cặn bã ấy sẽ hư thối và tạo nên mùi hôi tanh. Nếu có thể, ta nên tháo gỡ và chùi rửa bộ răng giả hoặc dùng sợi chỉ luồn dưới cầu răng ngày một lần vào buổi tối, để phòng tránh sự ứ đọng thức ăn trong miệng.
H. Nhịn đói (hunger)
Người bỏ bữa ăn vì lười ăn hoặc ăn kiêng cữ hay bị hôi miệng. Khi ăn, những tác động nhai cắn làm nước miếng được tiết ra nhiều, rửa và giết bớt vi trùng trong miệng, khiến miệng không bị hôi.
I. Thức ăn (foods)
Một số các chất biến dưỡng từ thức ăn được hấp thụ vào máu, rồi thải ra ngoài cơ thể qua đường phổi. Hành, tỏi, rượu, gây hôi miệng qua cơ chế này. Người Việt Nam chúng ta có nhiều món rất ngon, như là mắm cà tôm, mắm ruốc, khô mực, khô cá thiều v.v... nhưng những món này lưu trữ trong hơi thở rất lâu nên khi ta ợ lên thì ôi thôi là... hôi!
J. Tuổi tác (aging)
Mùi của hơi thở thay đổi theo tuổi tác. Ta hay bảo hơi thở của trẻ em thơm như mùi sữa. Lớn lên, từ tuổi vị thành niên (adolescence) đến tuổi trung niên (middle age), hơi thở đã kém thơm tho. Càng lớn tuổi, hơi thở càng... có mùi, dù ta giữ gìn răng miệng đúng cách. Vì càng lớn tuổi, các tuyến nước bọt trong miệng bị giảm nhỏ lại thì số lượng và phẩm chất nước bọt cũng bị giảm đi đưa tới bệnh hôi miệng.
II. Nguồn mùi hôi không do miệng
Thuốc (medications)
Những thuốc dùng có tác dụng làm khô miệng hoặc ảnh hưởng tới những tuyến nước miếng đều có thể gây hôi miệng.
Những thuốc chống nghẹt mũi (anti-histamines), dùng chữa ngứa, chữa dị ứng mũi (Claritin, Benadryl, Chlor-Trimeton, Dimetapp) làm cho mũi và miệng khô khan. Các thuốc chữa bệnh tâm thần (anxiolytics, antidepressants, antipsychotics) và thuốc chữa cao áp huyết (diuretics) có thể ảnh hưởng ít nhiều tới những tuyến nước miếng.
Theo như nêu trên, 90% chứng bệnh hôi miệng phát xuất từ khoang miệng. 10% còn lại là do những bệnh trong cơ thể gây nên. Các bệnh hệ thống, làm thay đổi hóa học bình thường của cơ thể, tạo ra những chất dễ bay hơi đến các hệ bài tiết hay phổi qua đường máu rời được thoát ra ở mồ hôi, nước bọt, các dịch tiết hay khí thở gây ra mùi hôi.
1. Nóng sốt và thiếu nước (fever/dehydration)
Nóng sốt cao và thiếu nước trong cơ thể làm giảm sự tiết bài nước miếng đưa đến tình trạng hôi miệng. Cơ thể bị thiếu các sinh tố như sinh tố A, B12, chất sắt (Iron), chất kẽm (Zinc) sẽ làm miệng bị khô, nứt nẻ khiến cho bã thức ăn và vi trùng dễ bám vào những chổ nứt nẻ này.
2. Bệnh tiêu hóa (gastrointestinal disorders)
Nếu nói tổng quát thì những tình trạng nào dẫn tới sự suy yếu (weakening) hoặc ngăn cản (inhibition) việc khép đậy van thực quản như bệnh dội ngược bao tử thực quản (gastroesophageal reflux disease), hẹp môn vị (pyloric stenisis), hoặc thoát vị lỗ khuyết (hiatal hernia) đều dẫn tới nguồn hôi miệng. Ví dụ, người bị bệnh dội ngược bao tử thực quản (gastoesophageal reflux disease). Trong trường hợp này, thức ăn trong bao tử dội ngược lên thực quản, vì van đóng ở giữa thực quản và bao tử bị yếu, khiến có thể bị hôi miệng. Vì van đóng bị yếu, thức ăn ợ lên và các mùi hôi chua trong bộ tiêu hóa dội ngược lên thực quản, rồi theo miệng thoát ra ngoài.
Gần đây, một giả thuyết khác được đưa ra cho chúng ta thấy sự liên hệ giữa bệnh hôi miệng và vi trùng Helicobacter pylori trong bao tử – một tình trạng nhiễm trùng gây nên bệnh loét bao tử và ung thu dạ dày. Dựa trên giả thuyết này, người ta thấy khi dùng thuốc metronidazole thì đã làm tan biến mùi hôi trong miệng và cũng đưa tới sự thay đổi hóa lượng số vi trùng trong miệng.
3. Bệnh tiểu đường (diabetes)
Sự liên hệ giữa bệnh tiểu đường và bệnh nướu răng đã được giới y nha sĩ xác nhận rõ ràng từ nhiều năm qua. Thường thường trong những người mắc bệnh tiểu đường, hệ thống mạch máu bị nghẽn tắc, nên việc lưu chuyển các chất bổ dưỡng, dưỡng khí và các huyết cầu tới những bộ phận quan trọng như tim, óc, mật và thận cũng bị ảnh hưởng. Cũng vì hệ thống mạch máu bị nghẽn, việc máu lưu thông đến những mô chung quanh chân răng cũng bị giảm đi, khiến nướu và xương hố răng bị hư hại nhanh hơn bình thường. Nhiều dữ kiện cho chúng ta thấy bệnh nướu răng biến nặng mau lẹ hơn nếu người đó cũng bị mắc bệnh tiểu đường. Thêm nữa, theo kinh nghiệm quan sát, người bị bệnh tiểu đường thường hay có nhiều những bọng mủ nhọt nổi chung quanh vùng nướu răng mà không có một lý do gì chính đáng. Khi nhận ra những dấu chỉ này trong lúc khám răng, người nha sĩ nên gửi người bệnh tới một bác sĩ y khoa để thử chất lượng đường trong máu.
BSNK Anne-Marie Hòa Nguyễn
"Hôm nay cắp sách đến trường
Ngồi chung một ghế chuyện trò quen em
Dáng em xinh đẹp như tiên
Có chiếc răng giả bựa vàng bám quanh
Tươi cười em nói đôi lời
Hơi thở nồng nhiệt mọi người quay đi
Thương em anh nhắn đôi lời
Nên đi chữa trị, người đời bớt chê..."
Bài thơ trên diễn tả và so sánh một nụ cười và hơi thở một người mình yêu mến, Nhưng nếu bộ răng của bạn mà bị sún, sâu, hoặc tẽ ra và hơi thở của bạn quá nồng nàn thì là một cái nạn lớn có thể đưa tới việc nản lòng. Hội đồng Nha Khoa Mỹ (American Dental Association) phỏng đoán 50-65% người lớn (trong 85 triệu người Mỹ) bị chứng bệnh hôi miệng. Hằng năm, người Mỹ chi tiêu khoảng 1 tỷ Mỹ kim mỗi năm để mua sắm thuốc rửa miệng, kẹo the hoặc chewinggum để giữ cho thơm miệng. Những phẩm chất này chỉ công hiệu trong thời gian rất ngắn ngủi. Thuốc nước súc miệng (mouthwashes) chỉ công dụng trong khoảng 1 tới 3 giờ đồng hồ. Chúng ta cũng nên biết phần đông những bình thuốc tráng miệng đều có chất alcohol và có thể kích thích những mô phần trong miệng (Irritation of oral tissues) làm cho bệnh hôi miệng thành nặng hơn.
Miệng hôi, tiếng Mỹ thường gọi là bad breath hoặc danh từ trong chuyên khoa gọi là Halitosis. Chữ Halitosis xuất gốc từ tiếng Latinh – halitus là "hơi thở" và osis là "tình trạng". Hơi thở hôi là một vấn đề quen thuộc đối với các chuyên viên ngành nha và bệnh nhân. Có người tự giác, đến than với bác sĩ rằng mình bị hôi miệng. Thường hơn, người bị hôi miệng không biết miệng mình bị hôi. Tình trạng này có thể xảy ra trong mọi người ở mọi lứa tuổi và có thể nặng ở một số người, đến mức độ bị mọi người xa lánh. Bài viết này sẽ trình bày và dẫn giải những lý do đưa tới bệnh hôi miệng và cách thức điều trị căn bệnh này.
Các mùi gây khó chịu có thể do nhiều nguồn khác nhau trong cơ thể. Chứng bệnh nặng mùi có thể phát khởi từ khoang miệng (oral cavity), hốc mũi (nasal passages), đường khí quản (upper respiratory tract), hoặc phần trên của đường tiêu hóa (upper digestive tract). Người Việt Nam chúng ta thường tin và nghĩ rằng tình trạng hôi miệng xảy ra vì mình bị bệnh đau bao tử hoặc bệnh phổi. Những nghiên cứu cho thấy 85% căn bệnh hôi miệng đều phát xuất từ khoang miệng. 10% còn lại phát xuất từ đường hô hấp, đường tiêu hóa, hoặc những bệnh như bệnh viêm gan (cirrhosis), bệnh tiểu đường (diabetes), hoặc bệnh thận (kidney failure).
Có hai nguyên nhân gây ra bệnh hôi miệng: do miệng, và không do miệng. (bảng kê 1). Nói chung, với số người bị hôi miệng, nguyên nhân gây hôi nằm ngay trong miệng. Lý do chính gây ra bệnh hôi miệng là sự thối nát của vi trùng (bacterial putrefaction) và việc sản xuất những tính chất sulfur. Trong khoang miệng, chúng ta có hơn 300 loại vi trùng sống tương trợ lẫn nhau với những cấu tạo phức tạp chung quanh những mô bao bọc chân răng, lưỡi và cuống họng. Phần đông những vi trùng gây biến chứng bệnh hôi miệng đều thuộc loại "vi trùng kỵ khí, G-". Những vi trùng này chuyển hóa những chất axit amino tiết ra từ thực phẩm và những chất peptide từ nước bọt thành những khí chất phụ khác (gas by-products). Nghiên cứu cho thấy hydrogen sulfide (H2S), methyl mercaptan (CH3SH), dimethylsulfide (CH3SCH3), hoặc dimethyl disulfide là những chất sulfur dễ bay hơi có mùi hôi, là chủ yếu trong chứng hơi thở hôi. Những khí chất nêu trên còn được gọi chung trong sách vở là "hợp chất khí sulfur" (volatile sulfur" (volatile sulfur compounds, VSCs).
Khi nói tới khoang miệng, chúng ta cũng nên biết tầm quan trọng của nước bọt, nước miếng. Nước miếng có rất nhiều công dụng, chẳng hạn như có tính chất kháng vi khuẩn (antibacterial), kháng siêu vi trùng (antivirus), kháng trị nấm (antifungal), chất lượng dung hòa (buffering capacity), và tẩy sạch khoang miệng (mechanical cleansing of the oral cavity). Tóm lại, nước miếng được coi như là một loại xà bông rất tốt trong miệng, có tính chất sát trùng. Đồng thời, nước bọt còn có công dụng hòa tan (solvent) hoặc tận diệt những phẩm chất bay hơi nặng mùi (malodorous volative compounds). Nếu những chất nặng mùi này được hòa tan trong nước miếng thì sự cảm nhận mùi hôi cũng được giảm đi. Nhưng nếu mực nước miếng bị ngưng chặn hoặc giảm thiếu, thì lượng chất sulfur sẽ tăng trưởng và sẽ dễ dàng cảm nhận hơn. Phần nhiều chúng ta nuốt hoặc hít hơi vào trước khi phát âm. Bởi vì thế, chúng ta rất dễ dàng nhận ra những người bị bệnh hôi miệng khi họ đang "thao thao bất tuyệt".
I. Nguồn hôi do miệng (bảng kê 2)
A. Bệnh nướu răng – bệnh nha chu (gum diseases)
Bệnh răng và bệnh viêm lợi kinh niên (Chronic gingivitis) có lẽ là những nguyên nhân gây hôi miệng nhiều nhất, vì tạo điều kiện thuận lợi cho các vi trùng phát triển tối đa. Khi nướu răng đã bị nhiễm độc, tình trạng sẽ lây tới những hốc trống dưới nướu răng (pockets). Những hốc rỗng này là nơi chứa đựng nhiều loại vi trùng kỵ khí luôn xung đột với những kháng tố do cơ thể tạo ra. Đồng thời, những loại vi trùng G- gây ra bệnh nướu răng cũng sản xuất ra những lượng chất sulfur đưa tới tình trạng hôi miệng kinh niên (chronic bad breath) nếu tình trạng căn bệnh bị kéo dài.
B. Bệnh viêm sưng miệng (stomatitis)
Các tình trạng làm viêm khoang miệng hay lưỡi (vì bệnh hoạn, do dùng thuốc, hay do cơ thể thiếu các sinh tố) cũng có thể gây hôi miệng vì khi miệng, môi, lưỡi bị lở nứt thì thức ăn và vi trùng sẽ bám bíu vào những chỗ nứt lở này.
C. Sâu răng (dental caries)
Thông thường, sâu răng ít khi nào đưa tới tình trạng hôi miệng. Ngoại trừ khi răng bị mẻ khoảng lớn làm cho thức ăn bị dắt vào và bị ứ đọng lâu ngày. Những tình trạng khác như vết trám bị lồi lõm (faulty, overhanging restorations) hoặc mão răng bị hở (leaking crowns) cũng có thể làm cho thức ăn bám dính và ứ đọng lại.
D. Thuốc lá (smoking)
Hút thuốc lá loại nào cũng làm hôi miệng và dễ phát hiện nhất. Chất thuốc nicotine trong điếu thuốc lá bám trên mặt răng và lưỡi lâu ngày sẽ làm cho răng, lưỡi thâm nâu (nicotine stain) và bề mặt răng trở nên rám, tạo nên cơ hội thuận tiện cho trăm loại vi trùng bám vào chân răng và mặt lưỡi (bacterial attachment) và làm hư hoại. Hơn nữa, những tình trạng nguy cơ khác có thể xảy đến những người nghiện thuốc lá như là bệnh nướu răng đưa tới sự rụng răng, ung thư miệng, cuống họng, phổi, v.v...
E. Hơi thở buổi sáng (morning breath)
Trong lúc ta ngủ ban đêm, nước miếng gần như ngừng chảy. Không có nhiều nước miếng ban đêm, các vi trùng trong miệng sinh sôi nảy nở, tạo ra mùi hôi. Mùi hôi này phát xuất từ những vi trùng kỵ khí (anaerobic bacteria) ẩn núp trong những kẽ hở trong lưỡi và răng đã sản xuất ra chất hydrogen sulfide.
F. Khô miệng (dry mouth)
Miệng bị khô do bất cứ nguyên nhân nào cũng có thể làm miệng thêm hôi vì số lượng nước miếng bị giảm đi. Nghiên cứu cho thấy chứng khô miệng làm tăng thêm phần sản xuất những chất sulfur trong miệng. Những nguyên nhân đưa tới chứng giảm nước bọt như là dùng thuốc men, trị bệnh bằng tia phóng xạ (radiation therapy) chung quanh vùng quai hàm mặt, Sjogrens Syndrome, hoặc thở bằng miệng. Sự giảm xuất nước bọt cũng có thể xảy ra trong những người già vì những tuyến nước bọt bị bóp nhỏ hoặc teo đi.
G. Bộ phần răng giả (mouth appliances)
Những bộ răng giả, hoặc cố định (fixed) hoặc tháo ráp được (removable), là nơi các vụn thức ăn trôi dạt vào và ẩn nấp khi ta ăn uống. Nếu lâu ngày chúng ta không chà cọ, những vụn thức ăn hoặc cặn bã ấy sẽ hư thối và tạo nên mùi hôi tanh. Nếu có thể, ta nên tháo gỡ và chùi rửa bộ răng giả hoặc dùng sợi chỉ luồn dưới cầu răng ngày một lần vào buổi tối, để phòng tránh sự ứ đọng thức ăn trong miệng.
H. Nhịn đói (hunger)
Người bỏ bữa ăn vì lười ăn hoặc ăn kiêng cữ hay bị hôi miệng. Khi ăn, những tác động nhai cắn làm nước miếng được tiết ra nhiều, rửa và giết bớt vi trùng trong miệng, khiến miệng không bị hôi.
I. Thức ăn (foods)
Một số các chất biến dưỡng từ thức ăn được hấp thụ vào máu, rồi thải ra ngoài cơ thể qua đường phổi. Hành, tỏi, rượu, gây hôi miệng qua cơ chế này. Người Việt Nam chúng ta có nhiều món rất ngon, như là mắm cà tôm, mắm ruốc, khô mực, khô cá thiều v.v... nhưng những món này lưu trữ trong hơi thở rất lâu nên khi ta ợ lên thì ôi thôi là... hôi!
J. Tuổi tác (aging)
Mùi của hơi thở thay đổi theo tuổi tác. Ta hay bảo hơi thở của trẻ em thơm như mùi sữa. Lớn lên, từ tuổi vị thành niên (adolescence) đến tuổi trung niên (middle age), hơi thở đã kém thơm tho. Càng lớn tuổi, hơi thở càng... có mùi, dù ta giữ gìn răng miệng đúng cách. Vì càng lớn tuổi, các tuyến nước bọt trong miệng bị giảm nhỏ lại thì số lượng và phẩm chất nước bọt cũng bị giảm đi đưa tới bệnh hôi miệng.
II. Nguồn mùi hôi không do miệng
Thuốc (medications)
Những thuốc dùng có tác dụng làm khô miệng hoặc ảnh hưởng tới những tuyến nước miếng đều có thể gây hôi miệng.
Những thuốc chống nghẹt mũi (anti-histamines), dùng chữa ngứa, chữa dị ứng mũi (Claritin, Benadryl, Chlor-Trimeton, Dimetapp) làm cho mũi và miệng khô khan. Các thuốc chữa bệnh tâm thần (anxiolytics, antidepressants, antipsychotics) và thuốc chữa cao áp huyết (diuretics) có thể ảnh hưởng ít nhiều tới những tuyến nước miếng.
Theo như nêu trên, 90% chứng bệnh hôi miệng phát xuất từ khoang miệng. 10% còn lại là do những bệnh trong cơ thể gây nên. Các bệnh hệ thống, làm thay đổi hóa học bình thường của cơ thể, tạo ra những chất dễ bay hơi đến các hệ bài tiết hay phổi qua đường máu rời được thoát ra ở mồ hôi, nước bọt, các dịch tiết hay khí thở gây ra mùi hôi.
1. Nóng sốt và thiếu nước (fever/dehydration)
Nóng sốt cao và thiếu nước trong cơ thể làm giảm sự tiết bài nước miếng đưa đến tình trạng hôi miệng. Cơ thể bị thiếu các sinh tố như sinh tố A, B12, chất sắt (Iron), chất kẽm (Zinc) sẽ làm miệng bị khô, nứt nẻ khiến cho bã thức ăn và vi trùng dễ bám vào những chổ nứt nẻ này.
2. Bệnh tiêu hóa (gastrointestinal disorders)
Nếu nói tổng quát thì những tình trạng nào dẫn tới sự suy yếu (weakening) hoặc ngăn cản (inhibition) việc khép đậy van thực quản như bệnh dội ngược bao tử thực quản (gastroesophageal reflux disease), hẹp môn vị (pyloric stenisis), hoặc thoát vị lỗ khuyết (hiatal hernia) đều dẫn tới nguồn hôi miệng. Ví dụ, người bị bệnh dội ngược bao tử thực quản (gastoesophageal reflux disease). Trong trường hợp này, thức ăn trong bao tử dội ngược lên thực quản, vì van đóng ở giữa thực quản và bao tử bị yếu, khiến có thể bị hôi miệng. Vì van đóng bị yếu, thức ăn ợ lên và các mùi hôi chua trong bộ tiêu hóa dội ngược lên thực quản, rồi theo miệng thoát ra ngoài.
Gần đây, một giả thuyết khác được đưa ra cho chúng ta thấy sự liên hệ giữa bệnh hôi miệng và vi trùng Helicobacter pylori trong bao tử – một tình trạng nhiễm trùng gây nên bệnh loét bao tử và ung thu dạ dày. Dựa trên giả thuyết này, người ta thấy khi dùng thuốc metronidazole thì đã làm tan biến mùi hôi trong miệng và cũng đưa tới sự thay đổi hóa lượng số vi trùng trong miệng.
3. Bệnh tiểu đường (diabetes)
Sự liên hệ giữa bệnh tiểu đường và bệnh nướu răng đã được giới y nha sĩ xác nhận rõ ràng từ nhiều năm qua. Thường thường trong những người mắc bệnh tiểu đường, hệ thống mạch máu bị nghẽn tắc, nên việc lưu chuyển các chất bổ dưỡng, dưỡng khí và các huyết cầu tới những bộ phận quan trọng như tim, óc, mật và thận cũng bị ảnh hưởng. Cũng vì hệ thống mạch máu bị nghẽn, việc máu lưu thông đến những mô chung quanh chân răng cũng bị giảm đi, khiến nướu và xương hố răng bị hư hại nhanh hơn bình thường. Nhiều dữ kiện cho chúng ta thấy bệnh nướu răng biến nặng mau lẹ hơn nếu người đó cũng bị mắc bệnh tiểu đường. Thêm nữa, theo kinh nghiệm quan sát, người bị bệnh tiểu đường thường hay có nhiều những bọng mủ nhọt nổi chung quanh vùng nướu răng mà không có một lý do gì chính đáng. Khi nhận ra những dấu chỉ này trong lúc khám răng, người nha sĩ nên gửi người bệnh tới một bác sĩ y khoa để thử chất lượng đường trong máu.