|
Post by NHAKHOA on Apr 26, 2009 14:28:04 GMT -5
VIÊM GAN VÀ XƠ GAN (HEPATITIS AND CIRRHOSIS) 1/ VIÊM GAN LÀ GÌ ? Viêm gan (hepatitis) chỉ bất cứ quá trình viêm nào xảy ra ở nhu mô gan và có thể dẫn đến từ những bất thường xét nghiệm đơn thuần đến bệnh tối cấp gây tử vong. Yếu tố căn nguyên thông thường nhất là siêu vi trùng. 2/ CÁC VIRUS NÀO GÂY VIÊM GAN ? Viêm gan siêu vi trùng (viral hepatitis) có thể gây nên bởi các virus gây viêm gan A, B, C, D và E; virus Epstein-Barr (EBV); và cytomegalovirus (CMV). Một virus gây viêm gan không A-E, viêm gan G, mới được mô tả gần đây. Nói chung những virus này gây nên những bệnh cảnh lâm sàng tương tự nhau, từ không có triệu chứng đến bệnh nặng (hiếm). 3/ CÁC VIRUS GÂY VIÊM GAN TRUYỀN BỆNH NHƯ THẾ NÀO ? Viêm gan A và E được truyền bằng đường phân-miệng (fecal-oral route). Cả hai tác nhân gây bệnh thịnh hành nơi những vùng có trình độ y tế thấp. Những vụ dịch lớn của hai bệnh này thường xảy ra sau lụt lội và những tai họa thiên nhiên khác làm phá vỡ những hệ thống y tế vốn đã mong manh. Viêm gan A gây dịch địa phương ở Hoa Kỳ và ở nhiều vùng trên thế giới, trong khi viêm gan E không gây dịch địa phương ở Hoa Kỳ. Những vụ bộc phát lớn viêm gan E đã được thấy ở Trung và Nam Mỹ, Bangladesh, và Ấn Độ. Đường truyền phân miệng bao gồm không những sự gây nhiễm trực tiếp nước uống và thức ăn, mà còn độ tập trung virus và sự mắc bệnh bằng đường ruột do ăn sống sò hến tôm cua từ nước bị ô nhiễm bởi cống rãnh. Các virus gây viêm gan B,C, và D được truyền bằng tiếp xúc qua da bởi máu và các dịch cơ thể bị nhiễm trùng. Những yếu tố nguy cơ bao gồm hoạt động sinh dục không được bảo vệ, dùng thuốc ma túy bằng đường tĩnh mạch, bị kim chích, truyền máu, thẩm tách máu, và sự lây truyền mẹ-em bé lúc sinh. 4/ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA VIÊM GAN A ? Virus gây viêm gan A (hepatitis A virus) là một enterovirus thuộc họ Picornaviridae, gây một bệnh được truyền bằng đường ruột, mắc phải do ăn uống chất đã bị ô nhiễm bởi phân. Virus đi qua dạ dày, tăng sinh trong phần dưới của ruột, được vận chuyển đến gan và bắt đầu tăng sinh trong tế bào chất. Sự tổn hại tế bào xảy ra khi các phòng vệ miễn dịch của cơ thể cố gắng giết chết virus. Thời kỳ tiềm phục trung bình cho đến khi phát khởi triệu chứng là khoảng 32 ngày, nhưng thay đổi từ 3 đến 6 tuần. Trong trường hợp cổ điển, có một giai đoạn tiền chứng (prodromal phase), trong đó những triệu chứng thông thường là cảm giác khó chịu, chán ăn, đau vùng thượng vị hay hạ sườn phải, sốt, phát ban, ỉa chảy, và bón. Bệnh thường được nhận biết trong giai đoạn hoàng đản (icteric phase), khi nước tiểu đậm màu và vàng da khiến bệnh nhân đi thăm khám y khoa. Các trắc nghiệm gan vào giai đoạn này cho thấy các nồng độ transaminase và bilirubin tăng cao, và chẩn đoán lâm sàng có thể được xác nhận bằng cách phát hiện kháng thể IgM chống lại virus. Mức độ nghiêm trọng của bệnh có liên hệ với tuổi tác. Những người lớn tuổi hơn có khuynh hướng có những triệu chứng xấu hơn những người trẻ tuổi. Hầu hết các trường hợp viêm gan A cấp tính biến mất trong vòng vài tuần với sự hồi phục hoàn toàn về mặt lâm sàng và sinh hóa. 5/ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA VIÊM GAN B ? Virus viêm gan B (HBV) là prototype của một họ virus mới, Hepadnaviridae. Biểu hiện lâm sàng của nhiễm trùng HBV có thể biến thiên từ tình trạng mang trùng (carrier state) đến viêm gan tối cấp (fulminant hepatitis). Trong trường hợp viêm gan cấp tính B điển hình, thời kỳ tiềm phục biến thiên từ 60 đến 180 ngày. Cũng giống như viêm gan A, viêm gan B có một thời kỳ tiền chứng (prodromal phase) âm ỉ hơn và kéo dài hơn, cọng thêm những triệu chứng viêm khớp và ban mày đay. Cũng như viêm gan A, các triệu chứng có khuynh hướng cải thiện khi vàng da khởi phát. Trong giai đoạn hoàng đản, bilirubin có khuynh hướng gia tăng ít dốc đứng hơn so với viêm gan A, nhưng đạt nồng độ cao hơn, và vàng da kéo dài lâu hơn. Nồng độ aminotransferase tăng chậm hơn, với cao điểm đạt chậm hơn nhiều so với viêm gan A. Không giống với viêm gan A, viêm gan B cấp tính có thể trở nên viêm gan mãn tính và xơ gan. Các bệnh nhân cũng có thể có một nhiễm trùng không có triệu chứng và không có bệnh gan (người lành mang trùng) Nhiễm trùng HBV có thể được lan truyền qua đường ngoài ruột (parenteral transmision). Máu là phương tiện hiệu quả nhất để lan truyền, nhưng virus cũng hiện diện trong các chất dịch khác của cơ thể (ví dụ nước miếng và tinh dịch). Nhiễm trùng HBV là một vấn đề thông thường trong số những người nghiện ma túy bằng đường tĩnh mạch, những người đàn ông đồng tính luyến ái, và các bạn đường phối ngẫu của những bệnh nhân bị nhiễm trùng. Sự lan truyền theo chiều thẳng đứng (vertical transmission) có thể xảy ra nơi các nhũ nhi có mẹ bị nhiễm phải viêm gan B trong tam cá nguyệt cuối cùng của thai kỳ. 6/ CÁC XÉT NGHIỆM CHẨN ĐOÁN VIÊM GAN B ? CHÚNG ĐƯỢC GIẢI THÍCH NHƯ THẾ NÀO ? Có những xét nghiệm miễn dịch nhạy cảm để định mức các kháng nguyên liên kết với HBV và các kháng thể mà nó gây ra. Hoạt tính kháng nguyên của nhân lõi (core) DNA của virus được ký hiệu là HBc (core ) Ag. Lớp bề mặt (surface coat) khác của virus có tính kháng nguyên đặc biệt và được ký hiệu là HbsAg (hepatitis B surface antigen). Những kháng nguyên này gây ra những kháng thể đặc hiệu, và cả hai tạo nên những chỉ dấu miễn dịch (immunologic marquers) quan trọng của nhiễm trùng và tiến triển của nó. Trong một trường hợp viêm gan B cấp tính, HbsAg được phát hiện đầu tiên trong máu trong thời kỳ tiềm phục, 1 tuần sau khi bị nhiễm trùng. Nồng độ HbsAg bắt đầu sụt xuống sau khi bệnh khởi đầu và thường trở nên không thể phát hiện được trong vòng 3 tháng sau khi tiếp xúc. Sự hiện diện của HbsAg trong huyết thanh chỉ rõ tiềm năng gây nhiễm khuẩn. Anti-HBc xuất hiện trong huyết thanh vào cuối thời kỳ tiềm phục và tồn tại trong giai đoạn cấp tính của bệnh và vài tháng đến vài năm sau đó. Anti-HBs được phát hiện trung thời kỳ dưỡng bệnh (vài tuần đến vài tháng sau khi HbsAg biến mất) và tồn tại trong một thời gian dài. Một nồng độ cao anti-HBs xác nhận tính miễn dịch đối với HBV. Sự tồn tại kéo dài của HbsAg là một dấu hiệu của viên gan B mãn tính. 7/ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA VIÊM GAN C ? Viêm gan C là tên được đặt cho virus RNA chuỗi đơn (single-standed), có bà con xa với họ Flavivirus. Virus viêm gan C là nguyên nhân quan trọng của viêm gan không phải do virus A và B (non-A, non-B hepatitis) xảy ra sau truyền máu (posttransfusion), mắc phải trong cộng đồng (community-acquired), hay không rõ nguyên nhân. Mãi cho đến khi có các xét nghiệm huyết thanh, viêm gan C là nguyên nhân của 90-95% của tất cả các trường hợp viêm gan sau truyền máu (posttransfusion hepatitis). Thời gian tiềm phục để nồng độ aminotransferase gia tăng là 6-8 tuần. Những triệu chứng thường có mức độ nghiêm trọng trung bình ; 40 đến 75% các trường hợp không có triệu chứng. Vàng da không thường xảy ra (10%) và thường nhẹ. Viêm gan C có tỷ lệ cao tiến triển thành viêm gan mãn tính và xơ gan. Nhận diện sớm nhiễm trùng là khó. Alanine aminotransferase thường cao hơn aspartate aminotransferase. 8/ XÉT NGHIỆM NÀO CÓ THỂ PHÁT HIỆN VIRUS VIÊM GAN C VÀO THỜI ĐIỂM SỚM NHẤT TRONG TIẾN TRIỂN BỆNH ? RNA viêm gan C có thể được phát hiện bằng PCR (polymerase chain reaction) vào khoảng 2 tuần sau khi tiếp xúc. 9/ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA VIÊM GAN D Viêm gan D (hay delta agent) là một phần tử virus RNA không hoàn toàn, tương tự với các virus thực vật ; siêu vi viêm gan D đòi hỏi sự hiện diện của HBV để sự nhiễm trùng và tăng sinh có thể xảy ra. Nhiễm trùng chỉ có thể xảy ra nơi những người mang HbsAg tiếp xúc với tác nhân delta hay nơi những bệnh nhân bị nhiễm đồng thời bởi HBV và viêm gan D. Nhiễm trùng đồng thời bởi cả hai virus này có thể được liên kết với viêm gan tối cấp (fulminant hepatitis). Nhiễm trùng mạn tính với viêm gan D thường được liên kết với viêm gan mãn tính hoạt động (chronic active hepatitis) hay xơ gan. 10/ VIÊM GAN E LÀ GÌ ? Siêu vi trùng viêm gan E (hepatitis E virus) gây nên một bệnh lây truyền bằng đường nước (water-borne disease), tương tự nhưng nói chung nhẹ hơn viêm gan A. Viêm gan E có thể được truyền bằng đường phân-miệng (fecal-oral route). Bệnh có thời gian tiềm phục trung bình là 40 ngày và gây dịch bệnh trong một số nước đang phát triển. Viêm gan tối cấp (fulminant hepatitis) có thể xảy ra, đặc biệt là nơi những phụ nữ có thai, với một tỷ lệ tử vong cao đến 20%. 11/ VIÊM GAN G LÀ GÌ ? Siêu vi trùng viêm gan G (HGV) là một siêu vi trùng độc nhất có thể được truyền bằng đường máu. Sự liên kết của viêm gan G với bệnh vẫn không rõ ràng, nhưng người ta ước tính rằng khoảng 0,3% những người với viêm gan cấp tính do virus bị nhiễm bởi HGV. Nhiễm trùng dai dẳng với HGV có vẻ rất thịnh hành trong toàn dân ; hầu như 2% những người cho máu và 14-52% những bệnh nhân với những loại viêm gan siêu vi khác có xét nghiệm dương tính đối với HGV RNA 12/ VIÊM GAN Ứ MẬT (CHOLESTATIC HEPATITIS) LÀ GÌ ? Viêm gan siêu vi mãn tính hay hội chứng đáp ứng viêm toàn thể (systemic inflammatory response syndrome : SIRS) có thể đưa đến quá trình tắc mật, được chẩn đoán bởi vàng da, ngứa, nồng độ bilirubin trực tiếp và alkaline phosphatase tăng cao. Căn nguyên của tình trạng này là tình trạng loạn chức năng của các tiểu quản mật (canalicular dysfunction), thứ phát nhiễm trùng siêu vi và/hay đáp ứng viêm. Hầu hết các đợt viêm gan tắc mật (cholestatic hepatitis) đều tự giới hạn : tuy nhiên cần loại bỏ các nguyên nhân gây tắc mật ngoài gan. 13/ VIÊM GAN SIÊU VI TỐI CẤP (FULMINANT VIRAL HEPATITIS) LÀ GÌ Viêm gan tối cấp (fulminant hepatitis) xảy ra nơi khoảng 1% những bệnh nhân bị viêm gan siêu vi cấp tính cần nhập viện. Trong viêm gan tối cấp, sự hoại tử ồ ạt tế bào gan xảy ra và được cho là do sự thanh lọc các kháng nguyên của virus xảy ra nhanh một cách bất thường. Viêm gan B chịu trách nhiệm khoảng 50% các trường hợp, viêm gan C khoảng 45% các trường hợp và viêm gan A khoảng 5%. Viêm gan tối cấp cũng có thể xảy ra do một số thuốc gây độc gan (hepatotoxic drugs) và những bệnh không thông thường. Hậu quả cuối cùng là suy gan tối cấp (fulminant hepatic failure). Suy gan tối cấp được thể hiện bởi những triệu chứng và những dấu chứng của bệnh não (encephalopathy), xảy ra trong vòng 3-8 tuần sau khi bệnh khởi phát. Một bệnh đông máu nặng xảy ra do chức năng tổng hợp của gan xấu và được đánh giá với prothrombin time (PT). Nếu PT vượt quá trị số bình thường 10 giây mặc dầu được cho bổ sung vitamin K, thì suy gan tối cấp đã tiến triển. Suy thận, thường là do thiếu hụt thể tích và phù não, là một di chứng thường gặp của suy gan tối cấp. 14/ SUY GAN TỐI CẤP (FULMINANT HEPATIC FAILURE) LÀ GÌ ? Suy gan tối cấp (fulminant hepatic failure) là sự phát triển nhanh của loạn chức năng gan nghiêm trọng, tiến triển thành bệnh não gan (hepatic encephalopathy), trong vòng 8 tuần từ khi bắt đầu bị bệnh, nơi một bệnh nhân không có bệnh sử bệnh gan. 15/ 4 NGUYÊN NHÂN CHÍNH CỦA SUY GAN CẤP TÍNH ? 1. Những nhiễm trùng bởi virus : viêm gan siêu vi trùng. 2. Những phản ứng độc hay đặc ứng ( toxic or idiosyncratic reactions) đối với các thuốc điều trị. 3. Những rối loạn chuyển hóa có nguyên nhân không rõ ràng. 4. Các độc tố. 16/ NHỮNG THAY ĐỔI TIM MẠCH LIÊN KẾT VỚI SUY GAN TỐI CẤP ? ĐIỀU TRỊ ? Những thay đổi tim mạch điển hình được liên kết với suy gan là giảm sức đề kháng huyết quản ngoại biên và gia tăng cung lượng tim (trạng thái tăng động lực, hyperdynamic state). Lưu lượng tim gia tăng được cho là do các shunt huyết quản cơ-da (myocutaneous vascular shunts) được mở ra. Sự thiết đặt catheter động mạch phổi rất hữu ích trong điều trị bệnh nhân.Về mặt sinh lý, phương pháp tốt nhất để điều trị lưu lượng tim gia tăng là làm giảm sự đề kháng huyết quản ngoại biên. Dopamine và các tác nhân alpha-adrenergic có thể được sử dụng, nhưng phải theo dõi phản ứng tachyphylactic và xuất huyết dạ dày-ruột. Những nghiên cứu lâm sàng đang được tiến hành với sự sử dụng levodopa trong cố gắng làm đầy norepinephrine nơi các tận cùng thần kinh giao cảm. 17/ NHỮNG RỐI LOẠN ĐIỆN GIẢI LIÊN KẾT VỚI SUY GAN TỐI CẤP ? ĐIỀU TRỊ ? Những rối loạn điện giải liên kết với xơ gan và suy gan thường là giảm natri-huyết (hyponatremia) và giảm kali-huyết (hypokalemia). Giảm natri-huyết thường là do máu bị pha loãng (dilutional), hậu quả của sự giảm bài tiết nước qua thận. Giảm kali-huyết là do gia tăng sự thải K trong nước tiểu (do chịu ảnh hưởng của aldosterone) và mất trong đường tiêu hóa. Những bất thường này được điều trị tốt nhất bằng cách hạn chế dịch và sodium. Spironolactone, chất đối kháng aldosterone, làm gia tăng sự mất nước hơn là mất sodium và cũng làm giảm sự bài tiết potassium. Điều trị phối hợp với furosemide và spironolactone có thể được sử dụng trong những trường hợp đề kháng, nhưng nồng độ K phải được theo dõi sát. BUN (blood urea nitrogen) và creatinine phải được theo dõi sát, và nếu bất cứ sự gia tăng nào được ghi nhận, thì điều trị bằng thuốc lợi tiểu nên được dừng lại để ngăn ngừa một dạng suy gan- thận (hepatorenal failure). 18/ NHỮNG THAY ĐỔI HỆ THẦN KINH TRUNG ƯƠNG ĐƯỢC THẤY TRONG VIÊM GAN TỐI CẤP. CHÚNG ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ NHƯ THỂ NÀO ? Bệnh não gan (hepatic encephalopathy) và phù não thường được thấy trong viêm gan tối cấp (fulminant hepatitis) và trong suy gan. Những tính chất lâm sàng của bệnh não gan là những biến đổi trạng thái tâm thần, asterixis, tiền hôn mê, và hôn mê. Nguyên nhân của bệnh não gan được nghĩ là do sự gia tăng nồng độ ammoniac trong máu, gián tiếp đưa đến một sự gia tăng vận chuyển amino acid xuyên qua hàng rào mạch máu-não (blood-brain barrier). Điều trị bệnh não gan được căn cứ trên sự làm mất bất cứ những yếu tố thúc đẩy nào và làm giảm amino acids được vận chuyển qua hàng rào mạch máu-não. Nếu có một thuốc đặc hiệu nào bị liên hệ, thì phải dừng sử dụng thuốc này. Điều trị chủ yếu là thuốc tẩy với lactulose (15 ml 3 lần mỗi ngày) hay magnesium citrate (240 ml/ ngày), dẫn đến một pH trong phân thấp hơn và sự thanh lọc vi khuẩn gia tăng. Sự giảm các vi khuẩn sinh urease với aminoglycosides dùng bằng đường miệng (neomycin, 1 g 4 lần mỗi ngày) cũng góp phần trong điều trị. Những bệnh nhân với bệnh não gan (hepatic encephalopathy) cần một chế độ ăn giảm đạm. Dinh dưỡng toàn bộ bằng đường ngoài ruột (TPN : total parenteral nutrition) dùng cho các bệnh nhân bị suy gan nên chứa ít hơn những amino acid trung tính, có nhân thơm và nhiều hơn amino acid có chuỗi phân nhánh. Những dung dịch như thế được dung nạp tốt hơn. 19/ VIÊM GAN TỐI CẤP ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ NHƯ THẾ NÀO ? Ngoài ghép gan orthotopic, không có hình thức điều trị đặc hiệu nào khác được chứng tỏ có lợi trong trong viêm gan tối cấp. Mục đích của điều trị hiện nay là kéo dài cuộc sống và kiểm soát sự suy gan trong một thời gian đủ để cho phép sự tái sinh gan trước khi bệnh nhân chết vì suy gan. Ghép gan đối với viêm gan tối cấp còn gây tranh cãi. Tuy nhiên, nếu ghép gan orthotopic được xét đến, cần khẩn thiết hội chẩn ngoại khoa ghép : bệnh não gan càng tồi, thì tiên lượng toàn bộ càng xấu. 20/ TIÊN LƯỢNG ĐỐI VỚI MỘT BỆNH NHÂN VỚI VIÊM GAN TỐI CẤP ? Tiên lượng sinh tồn toàn bộ của những bệnh nhân với viêm gan tối cấp là 20-25%. Tỷ lệ sinh tồn tương quan với tuổi của bệnh nhân và mức độ nặng nhất của bệnh não gan đã đạt được. Trên 50% những bệnh nhân đạt bệnh não giai đoạn II còn sống sót. Trái lại , tỷ lệ sinh tồn đối với những bệnh nhân tiến triển đến bệnh não giai đoạn IV là 20%. 21/ SỰ KHÁC NHAU GIỮA VIÊM GAN CẤP TÍNH VÀ MÃN TÍNH ? Tất cả các virus viêm gan đều có thể gây nhiễm trùng cấp tính, được định nghĩa như là sự hiện diện của những bất thường sinh hóa và huyết thanh trong tối đa 6 tháng. Viêm gan A và E được loại bỏ khỏi cơ thể trong vòng 6 tháng và không gây nhiễm trùng dai dẳng trong một thời gian dài. Trái lại, viêm gan B, C, và D có thể dẫn đến nhiễm trùng mãn tính, có khả năng liên kết với sự phát triển của xơ gan hơn. Một nguy cơ gia tăng bị ung thư biểu mô tế bào gan (hepatocellular carcinoma) nguyên phát xảy ra nơi những bệnh nhân bị nhiễm trùng mãn tính với viêm gan B, C và D. 22/ VIÊM GAN MÃN TÍNH LÀ GÌ ? Viêm gan mãn tính được định nghĩa là viêm gan kéo dài hơn 6 tháng. Có hai loại chính : viêm gan mãn tính kéo dài (chronic persistent hepatitis) và viêm gan mãn tính hoạt động (chronic active hepatitis). Viêm gan mãn tính kéo dài là một trường hợp phát trở lại, thuyên giảm, hiền tính, tự giới hạn, không liên kết với thương tổn gan xảy ra từ từ và không dẫn đến suy hay xơ gan. Viêm gan mãn tính hoạt động là một bệnh có tiên lượng xấu, được đặc trưng bởi sự phá hủy dần dần các tế bào gan trong một khoảng thời gian nhiều năm, với sự sói mòn liên tục dự trữ chức năng của gan và sự phát triển nhiên hậu của xơ gan. Người ta ước tính rằng khoảng 5-10 % những bệnh nhân với viêm gan B cấp tính và có thể đến 33% những bệnh nhân với viêm gan C có thể phát triển bệnh gan mãn tính. 23/ NHỮNG NGUYÊN NHÂN VIÊM GAN KHÔNG PHẢI DO SIÊU VI ? Thương tổn gan có thể được gây nên bởi nhiều tác nhân hoá học, các dược phẩm, và các bệnh chuyển hóa. Các thuốc được liên kết với viêm gan mãn tính hay xơ gan gồm có acetaminophen, aspirin, chlorpromazine, dantrolene, ethanol, halothane, isoniazid, methyldopa, nitrofurantoin, propylthiouracil, và sulfonamides. Những độc chất cho gan khác gồm có carbon tetrachloride, phosphorus, tetracycline, các thuộc hóa học trị liệu, Amanita phalloides (độc tố nấm), và các anabolic steroids. Các bệnh chuyển hóa như bệnh Wilson, bệnh thiếu alpha1-antitrypsin, và viêm gan tự miễn dịch (autoimmune hepatitis), đều được liên kết với viêm gan và bệnh gan. 24/ XƠ GAN LÀ GÌ ? Xơ gan (cirrhosis) là một quá trình tỏa lan, được đặc trưng bởi sự xơ hóa (fibrosis) và sự biến đổi cấu trúc gan bình thường thành các nốt (nodules) có cấu trúc bất bình thường. Sự rối loạn cấu trúc (architectural disorganization) của gan là không đảo ngược được một khi đã được xác lập, và xử trí nhằm vào hoặc phòng ngừa thương tổn gan xảy ra thêm nữa và điều trị các biến chứng. 25/ NHỮNG NGUYÊN NHÂN CHÍNH CỦA XƠ GAN ? Rượu là nguyên nhân thông thường nhất của xơ gan, chịu trách nhiệm 60 đến 70% các trường hợp.Viêm gan mãn tính, viêm gan tự miễn dịch (autoimmune hepatitis), xơ gan do mật nguyên phát (primary biliary cirrhosis), viêm đường mật hóa xơ nguyên phát (primary sclerosing cholangitis), hemachromatosis, bệnh Wilson, và những nguyên nhân không được biết cũng có thể dẫn đến xơ gan. 26/ NHỮNG BIẾN CHỨNG CHÍNH CỦA XƠ GAN ? Sự thương tổn từ từ của các tế bào gan và tăng áp lực tĩnh mạch cửa là những di chứng của xơ gan ; chúng có thể đưa đến 4 biến chứng quan trọng : cổ trướng (ascite), viêm phúc mạc tự phát do vi khuẩn (spontaneous bacterial peritonitis), bệnh não gan (hepatic encephalopathy), và xuất huyết dạ dày-ruột trên. Tất cả những biến chứng này có thể đưa đến sự nhập viện ở đơn vị điều trị tăng cường (ICU). 27/ CỔ TRƯỚNG DO XƠ GAN ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ NHƯ THẾ NÀO ? Điều trị khởi đầu của cổ trướng do xơ gan (cirrhotic ascite) có tính cách bảo tồn, nhấn mạnh sự hạn chế sodium và nghỉ ngơi. Người ta ước tính rằng 10-20% các bệnh nhân bị xơ gan cổ trướng có thể được điều trị một cách đầy đủ bằng cách này. Những bệnh nhân không đáp ứng với những biện pháp bảo tồn, cần điều trị bằng thuốc lợi tiểu. Spironolactone là thuốc được lựa chọn do tác dụng sinh lý của nó, tác dụng giữ K (potassium-sparing effects) và tương đối an toàn lúc sử dụng. Điều trị phối hợp spironolactone với furosemide được sử dụng nơi những bệnh nhân không đáp ứng với spironolactone được dùng đơn độc. Trong những trường hợp cổ trướng không đáp ứng với thuốc lợi tiểu, chọc dò điều trị (therapeutic paracentesis) (chọc tháo dịch cổ trướng) nên được xét đến, và bù albumin nếu cần. Nơi những bệnh nhân thật sự không đáp ứng, dẫn lưu kín phúc mạc-tĩnh mạch (peritoneovenous shunt) (dẫn lưu màng bụng vào tĩnh mạch cổ qua một ống teflon có van một chiều) nên được xét đến, nhưng ghi nhớ rằng có một tỷ lệ biến chứng cao (đông máu tỏa lan trong lòng mạch và sepsis) và không có lợi ích được chứng tỏ với phương pháp điều trị này. 28/ VIÊM PHÚC MẠC TỰ PHÁT DO VI KHUẨN LÀ GÌ ? LÀM SAO CHẨN ĐOÁN ? Viêm phúc mạc tự phát do vi khuẩn (SBP : spontaneous bacterial peritonitis) là một nhiễm trùng của dịch cổ trướng (ascitic fluid). Những dấu hiệu và các triệu chứng gồm có sốt, đau bụng, tri giác bị biến đổi, tăng bạch cầu, azotemia, nhiễm toan chuyển hóa, và xuất huyết dạ dày-ruột không thể giải thích. Chọc dò xác lập chẩn đoán. Đếm neutrophil trong dịch cổ trướng > 250/mm3 xác nhận chẩn đoán viêm phúc mạc do vi khuẩn. Viêm phúc mạc tự phát do vi khuẩn thường nhất được gây nên bởi Escherichia coli, các loại Klebsiella, và các loại Streptococcus. Đường nhiễm trùng được nghĩ là xuất phát từ sự chuyển dịch trực tiếp của vi khuẩn xuyên qua thành ruột phù và thẩm thấu một cách bất thường, mặc dầu sự lan truyền bằng đường máu gây nhiễm dịch cổ trướng có thể xảy ra. Nhuộm Gram và cấy dịch cổ trướng có thể giúp nhận diện vi khuẩn. 29/ VIÊM PHÚC MẠC NGUYÊN PHÁT DO VI KHUẨN ĐƯỢC PHÂN BIỆT VỚI VIÊM PHÚC MẠC THỨ PHÁT DO VI KHUẨN NHƯ THỂ NÀO ? Chẩn đoán của viêm phúc mạc tự phát do vi khuẩn (spontaneous bacterial peritonitis) được xác nhận bởi phân tích dịch cổ trướng. Các xét nghiệm chủ yếu là đếm tế bào, protéine toàn thể, lactate deshydrogenase, glucose, và nhuộm Gram. Xét nghiệm dịch Viêm phúc mạc nguyên phát do vi khuẩn Viêm phúc mạc thứ phát do vi khuẩn Bạch cầu (tế bào/ mm3) >500 >500 Proteine toàn thể(g/dl) <1 >1 Glucose (mg/dl) >50 <50 Lactate deshydrogenase (U/L) <225 >225 Nhuộm Gram đơn vi khuẩn đa vi khuẩn 30/ ĐỊNH NGHĨA TĂNG ÁP LỰC TĨNH MẠCH CỬA ? Tăng áp lực tĩnh mạch cửa hay tăng áp cửa (portal hypertension) được định nghĩa như là áp lực tĩnh mạch cửa (portal venous pressure) cao hơn 12 mmHg hoặc một áp lực tĩnh mạch cửa bít (hepatic wedge venous pressure) vượt quá áp lực tĩnh mạch chủ dưới hơn 5 mmHg. Tăng áp lực tĩnh mạch cửa được xếp loại trước gan (prehepatic), trong gan (hepatic) hoặc sau gan (posthepatic) tùy theo vị trí cơ thể học của sức cản tĩnh mạch cửa (portal venous resistance). Xơ gan là nguyên nhân thông thường nhất của tăng áp lực tĩnh mạch cửa trong gan. 31/ XUẤT HUYẾT DẠ DÀY-RUỘT TRÊN NƠI BỆNH NHÂN XƠ GAN ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ NHƯ THẾ NÀO ? Khoảng 70% các đợt xuất huyết trong xơ gan là do các giãn tĩnh mạch (variceal hemorrhage), nhưng những nguyên nhân khác như viêm dạ dày, loét, và vết rách Mallory-Weiss nên được ghi nhớ. Điều trị ban đầu nhằm vào hồi sức thể tích (volume resuscitation), điều chỉnh bệnh đông máu (coagulopathy), làm giảm áp lực tĩnh mạch cửa. Vasopressin được sử dụng rộng rãi để làm giảm áp lực tĩnh mạch cửa với tỷ lệ thành công ban đầu cao. Tuy nhiên những thử nghiệm lâm sàng đã chứng tỏ rằng somatostatin cho những kết quả tương tự nhưng không làm giảm lưu lượng động mạch vành như trong trường hợp vasopressin. Một khi bệnh nhàn đã được ổn định, nội soi được thực hiện để xác định nguyên nhân của xuất huyết. Nếu xuất huyết do giãn tĩnh mạch thực quản (esophageal varices), tiêm xơ (injection sclerotherapy) và/ hoặc thắt búi tĩnh mạch bằng vong cao su (banding) trở nên phương pháp điều trị được ưa thích và có một tỷ lệ thành công 85% trong xử trí cầm máu. Nếu liệu pháp xơ hóa (sclerotherapy) không thành công, có thể đặt một ống Sengstaken-Blakemore để cầm máu, nhưng việc sử dụng các ống này không thể thay thế liệu pháp triệt để. Nếu xuất huyết do giãn tĩnh mạch vẫn tiếp tục, một portosystemic shunt hay một TIPS (transjugular intrahepatic portacaval shunt) nên được xét đến. Một phương pháp thay thế là cắt bỏ phần dưới thực quản và/hay làm mất phân bố mạch thực quản-dạ dày (esophagogastric devascularization) (thủ thuật Sugiura), luôn luôn làm ngừng sự xuất huyết nhưng được liên kết với tỷ lệ tử vong cao. 32/ VAI TRÒ CỦA GHÉP GAN ORTHOTOPIC TRONG XƠ GAN ? Ghép gan đã trở nên một điều trị triệt để đối với xơ gan ở giai đoạn cuối. Tỷ lệ sinh tồn một và năm năm lần lượt khoảng 80% và 65%. Việc thực hiện ghép gan nơi những bệnh nhân xơ gan do rượu (alcoholic cirrhosis) còn gây tranh cãi. Tuy nhiên, hầu hết các phẫu thuật viên ghép muốn đưa những bệnh nhân này lên danh sách để ghép nếu họ chứng tỏ là đang kiêng cử rượu và hiện đang tham gia lớp hay nhóm phục hồi. Việc thực hiện ghép gan orthotopic nơi những bệnh nhân với viêm gan B hay C cũng gây tranh cãi. Tuy nhiên, với sự sử dụng HBIG (hepatitis B immunoglobulin), tải lượng virus (viral burden) được giảm, mang lại những tỷ lệ sinh tồn hứa hẹn nơi những bệnh nhân với viêm gan B. 33 / GHÉP DỊ LOẠI (XENOGRAFT TRANSPLANTATION) CÓ ĐÓNG MỘT VAI TRÒ TRONG ĐIỀU TRỊ SUY GAN TỐI CẤP KHÔNG ? Vài báo cáo trường hợp trong tư liệu mới đây mô tả ghép khác chỗ (heterotopic transplantation) những gan heo để hỗ trợ về mặt chuyển hóa trước khi ghép bằng một gan người. Hầu hết những trường hợp này đều không thành công trong việc cung cấp chức năng gan trong hơn 36-48 giờ, do bị thải bỏ cấp tính. 34/ NHỮNG TIẾN BỘ NÀO ĐÃ ĐƯỢC THỰC HIỆN VỚI HỖ TRỢ GAN NHÂN TẠO (ARTIFICIAL LIVER SUPPORT) Trong vài năm qua, các hệ thống hỗ trợ gan sinh-nhân tạo (bioartificial liver support systems), sử dụng hollow-fibers bioreactors, microcarrier cell culture techniques, và porcine hepatocytes, đã được ghép vào các động vật với suy gan cấp tính và đã đưa đến sự cải thiện quá trình khử độc và chức năng tổng hợp. Các hệ thống gan sinh-nhân tạo ngoài cơ thể, sử dụng porcine hepatocytes đã trắc nghiệm in vitro và đã chứng tỏ có hoạt tính cytochrome P450, tổng hợp protein, và kết hợp bilirubine. In vivo, những hệ thống này cung cấp sự hổ trợ chuyển hóa đáng kể cho động vật và cải thiện chức năng thần kinh. Với nghiên cứu thêm, các gan sinh-nhân tạo(bioartificial livers) có thể trở nên một chiếc cầu hiệu quả cho ghép gan orthotopic nơi những bệnh nhân chờ đợi các cơ quan của người cho. BS NGUYỄN VĂN THỊNH (8/2/2009) References : - Critical Care Secrets - GI/Liver Secrets - Hospital Medicine Secrets
|
|
|
Post by NHAKHOA on Apr 26, 2009 14:29:16 GMT -5
THUỐC VÀ SUY GAN CẤP TÍNH (MEDICAMENTS ET INSUFFISANCE HEPATIQUE AIGUE) D. Pateron, Service des Urgences, Hôpital Jean Verdier, Bondy K. Belhadj, Médecin urgentiste I/ NHẬP ĐỀ Một số lớn các loại thuốc (hơn 700) có thể là nguyên nhân của viêm gan cấp tính (hépatite aigue). 10-15 % những viêm gan tối cấp (hépatite fulminante) hay bán tối cấp (subfulminante) là do nhiễm độc gan bởi thuốc và, năm 2000, phẫu thuật ghép gan của những trường hợp viêm gan tối cấp do thuốc đã chiếm 17% của 64 trường hợp ghép gan được thực hiện hết sức cấp cứu. Những năm qua được đánh dấu bởi một thông tin rất rộng rãi về độc tính gan của vài loại thuốc. Mặc dầu sự tiêu thụ thuốc gia tăng, đặc biệt là trong dân số người già, và những tiến bộ của các phương pháp chẩn đoán, dường như tỷ lệ của các viêm gan do thuốc (hépatite médicamenteuse) trong toàn bộ các suy gan cấp tính có khuynh hướng giảm đi. Mặt khác, khi có một suy gan cấp tính, dầu đó là nguyên nhân gì, việc sử dụng thuốc phải thận trọng bởi vì chuyển hóa của chúng qua gan và thường là qua thận, bị biến đổi. II/ VIÊM GAN DO THUỐC (HEPATITE MEDICAMENTEUSE) Sự xuất hiện của một suy gan cấp tính trong khi bị viêm gan do thuốc được làm dễ bởi sự tiếp tục dùng thuốc sau khi xuất hiện những triệu chứng đầu tiên. Như vậy chỉ sự việc xác nhận một viêm gan cấp tính phải buộc ngừng sử dụng mọi thứ thuốc khả dĩ đã gây nên chứng viêm gan cấp tính này. Các thuốc có thể chịu trách nhiệm viêm gan cấp tính hoặc tiêu tế bào (cytolytique) hoặc ứ mật (cholestatique). Suy gan cấp tính chỉ xảy ra trong trường hợp viêm gan tiêu tế bào (hépatite cytolytique) hay viêm gan hỗn hợp có một phần tiêu tế bào. A/ CƠ CHẾ SINH LÝ BỆNH Có nhiều cơ chế ngộ độc gan do thuốc : 1/ VIÊM GAN NGỘ ĐỘC (HEPATITE TOXIQUE) Vài loại thuốc được biến đổi ở gan, bởi các hệ men như cytochrome P450, thành các sản phẩm chuyển hóa (métabolites) phản ứng không bền. Những chất phản ứng này (réactifs) cản quá trình chuyển hóa như hệ oxy hóa (système oxydatif). Khi các cơ chế bảo vệ (các tác nhân khử) bị vượt quá, các sản phẩm chuyển hóa này có thể gây nên những thương tổn tế bào. Trong trường hợp này không có biểu hiện tăng cảm ứng (hypersensibilité) và những viêm gan do thuốc này có thể xảy ra lần nữa khi thuốc lại được sử dụng. Những viêm gan này có thể do dùng thuốc quá liều hay xảy ra với liều lượng điều trị nơi một bệnh nhân tố bẩm. 2/ VIÊM GAN MIỄN DỊCH-DỊ ỨNG (HEPATITE IMMUNO-ALLERGIQUE) Thuốc đóng một vai trò haptène và gây nên một phản ứng dị ứng phá hủy các tế bào gan. Những viêm gan này không liên quan voi liều lượng. Chúng có thể kèm theo những biểu hiện dị ứng như nổi ban, sốt, ngứa hay tăng éosinophilie. Khi chúng có nguồn gốc tự miễn dịch, các viêm gan có thể kèm theo sự xuất hiện các tự kháng thể (auto-anticorps) trong huyết thanh. 3/ NHỮNG CƠ CHẾ KHÁC - Thoái hóa mỡ vi nang (stéatose microvésiculaire) (acide valproique). - Phospholipidose (amiodarone). B/ CHẨN ĐOÁN Đứng trước một suy gan cấp tính, những lý lẽ biện minh cho một viêm gan do thuốc (hépatite médicamenteuse) là : - Thời hạn tương hợp giữa lúc bắt đầu sử dụng thuốc và lúc bắt đầu của những biểu hiện viêm gan cấp tính. - Sự hiện diện của những biểu hiện dị ứng chứng tỏ một viêm gan miễn dịch-dị ứng (hépatite immuno-allergique). - Không có những nguyên nhân khác của viêm gan cấp tính, đặc biệt là siêu vi trùng hay thiếu máu cục bộ (ischémie). - Dạng vẻ cơ thể bệnh lý khi thực hiện một sinh thiết qua đường tĩnh mạch cổ (biopsie par voie transjugulaire), với định khu trung tâm tiểu thùy (topographie centrolobulaire) của hoại tử hay một dạng mô học gợi ý như một thoái hóa mỡ vi nang (stéatose microvésiculaire). C/ NHỮNG NGUYÊN NHÂN Nhiều thuốc chịu trách nhiệm viêm gan cấp tính tiêu tế bào (hépatite aigue cytolytique). Các thuốc chống nhiễm trùng (27%), các thuốc dưỡng thần (psychotropes) (16%), các thuốc chống ung thư (12%) và các thuốc được dùng trong bệnh lý tim mạch (11%) là những thuốc thường có liên hệ nhất trong những thương tổn gan gây nên bởi thuốc. Cho đến năm 2000, có 307 loại thuốc đã được quy cho trách nhiệm trong sự xuất hiện viêm gan cấp tính kèm theo suy gan và có liên quan đến tiên lượng sinh tồn. Các loại thuốc thường có liên lụy nhất là paracétamol, các thuốc kháng lao, các AINS, các thuốc chống động kinh, các thuốc gây mê halogéné, đặc biệt là halothane và cac thuốc chống trầm cảm ba vòng (antidépresseurs tricycliques). CÁC LOẠI THUỐC CÓ HƠN 5 TRƯỜNG HỢP VIÊM GAN CẤP TÍNH VỚI SUY GAN ĐÃ ĐƯỢC BÁO CÁO. Acide aminosalicylique Isoflurane Acide tannique (Hemorhinol) Isoniazide (Rimifon) Acide tienilique Ketoconazole (Nizoral) Acide Valproique (Dépakine) Méthoxyflurane Allopurinol (Zyloric) Méthyldopa (Aldomet) Amiodarone (Cordarone) Minocycline (Minocin) Amodiaquine Nitrofurantoine (Furadantine) Amoxicilline + Acide clavulanique (Augmentin) Paracétamol (Dafalgan) Aspirine Pémoline Carbamazépine (Tégrétol) Phénacémide Dactinomycine (Lyovac Cosmegen) Phénelzine Dantrolène (Dantrium) Phénobarbital (Gardénal) Dapsone Phénylbutazone Diclofénac (Voltaren) Piprofène Disulfirame (Antabuse) Propylthiouracile Enflurane Pyrazinamide (Tebrazid) Fluconazole (Diflucan) Sulfasalazine Flutamide Tetracycline Glafénine (Glifanan) Tribromoéthanol Halothane Trichloroéthylène Hycanthone Troglitazone Iproniazide Zidovudine D/ ĐIỀU TRỊ Điều trị nhằm ngừng sử dụng các thuốc chịu trách nhiệm và không có điều trị cho phép làm dễ sự thoái lui của các thương tổn hay ngăn ngừa sự trầm trọng của suy gan cấp tính. Do đó điều trị tốt nhất là nhận biết sớm một viêm gan do thuốc. Sự điều trị căn bản không khác với sự điều trị của một viêm gan cấp tính nặng. Chỉ có ngộ độc paracétamol là cần một điều trị đặc hiệu bằng một chất đối kháng, N acétyl-cystéine. III/ SỬ DỤNG THUỐC TRONG TRƯỜNG HỢP SUY GAN CẤP TÍNH. Những biến đổi của chuyển hóa gan của các loại thuốc khi bị suy gan cấp tính buộc phải hết sức thận trọng ngay khi sự sử dụng này được nhận biết. Ngoài ra, có một mức độ suy thận nào đó kèm theo, liên kết với những biến đổi huyết động gây nên bởi hội chứng suy gan cấp tính. Sau cùng vài loại thuốc như paracétamol gây nên, do độc tính, một suy thận hữu cơ mà thời điểm xuất hiện không đồng thời với lúc ngộ độc. A/ NHỮNG QUY TẮC ĐƠN GIẢN PHẢI ĐƯỢC TÔN TRỌNG. - Sự sử dụng các chất an thần phải được cấm kỵ. Sự ngăn ngừa những biến chứng cơ học do sự dẫy dụa (té ngã) liên kết với bệnh não gan (encéphalopathie), phải được đảm bảo bằng sự kềm giữ vật lý (contention physique). - Nếu bệnh nhân kêu buồn nôn hay nếu bệnh nhân mửa, thì không nên cho các thuốc chống mửa. Những dẫn xuất của các thuốc an thần kinh (neuroleptiques) này có thể gây hôn mê, làm cho những rối loạn tri giác (troubles de conscience) không thể giải thích được, trong khi những rối loạn này thuộc vào những tiêu chuẩn tiên lượng quan trọng. - Trong trường hợp ngộ độc bởi benzodiazépines, cho flumazénil có thể cải thiện tạm thời các rối loạn tri giác. - Mặc dầu đôi khi nồng độ của những yếu tố đông máu sụt giảm quan trọng, nhưng các hội chứng xuất huyết hiếm khi xảy ra và chỉ có sự xuất hiện của một xuất huyết lâm sàng mới có thể biện minh việc cho các yếu tố đông máu. Mặc dầu dùng để ngăn ngừa, việc cho các yếu tố đông máu không cải thiện tỷ lệ bệnh tật cũng như tỷ lệ tử vong của những bệnh nhân này. Biện pháp này nhằm ngăn cản việc giải thích những yếu tố đông máu trong quyết định ghép gan cấp cứu. - Cho các chất bảo vệ niêm mạc dạ dày như sulcralfate cho phép làm giảm tần số các xuất huyết tiêu hóa trong bối cảnh này. - Ngược lại, các chất kháng H2 bị chống chỉ định. - Liệu pháp corticoide không có hiệu quả. - Các barbituriques, được đề nghị trong điều trị tăng áp lực nội sọ, không được khuyến nghị bởi vì chúng có thể đưa đến hạ huyết áp nặng có hại. B/ VÀI LOẠI THUỐC CÓ ÍCH TRONG ĐIỀU TRỊ CÁC BIẾN CHỨNG CỦA SUY GAN CẤP TÍNH - Một sự hạ huyết áp với sự giảm tưới máu não hay sự làm đầy huyết quản quá mức có thể làm gia trọng tăng áp lực nội sọ. Nguy cơ xảy ra đồng thời của tăng áp lực nội sọ và hạ huyết áp đòi hỏi sử dụng sớm các amines vasopressives, đặc biệt là noradrénaline với liều lượng thấp 2-5 mcg/kg/phút. - Khi những rối loạn cảnh giác (troubles de vigilance) xuất hiện hay khi một tình trạng giảm oxy-huyết không điều chỉnh được bởi oxy xảy ra, sự thông khí hỗ trợ (ventilation assistée) là cần thiết. - Những bệnh nhân bị tăng áp lực nội sọ phải được đặt ở tư thế nửa ngồi (en position semi-assise). - Khi không có suy thận, tiêm truyền mannitol 20% với liều lượng 0,5 g/kg trong 15 phút mang lại một hiệu quả tối đa giữa 20 và 60 phút. - Khi có suy thận thiểu niệu, có thể đề nghị một siêu lọc (ultrafiltration) nhưng cần phải tránh tăng nồng độ osmol (hyperosmolarité). - Bệnh nhân bị suy gan cấp tính phải được xem như là một người bị suy giảm miễn dịch, nhất là khi có một suy thận. Một liệu pháp kháng sinh thường nghiệm bằng đường tổng quát với tác dụng bao trùm lên các vi khuẩn ruột (entérobactéries) và các cầu khuẩn gram +, phải được thiết đặt ngay khi nghi có nhiễm trùng. Vài tác giả đề nghị khử nhiễm đường tiêu hóa phòng ngừa (décontamination digestive préventive). BS NGUYỄN VĂN THỊNH (17/2/2009) References : - Pratique de la réanimation et de la médecine d’urgence
|
|
|
Post by NHAKHOA on Feb 27, 2010 20:08:51 GMT -5
Viêm gan Hepatitis B, bệnh Cao Huyết Áp và Cholesterol bằng phương pháp tổng hợp. Bài viết do Ông Trần Châu (Exryu Phần Lan) Những ngày đầu tháng 4 năm 1975, sau 3 năm du học ở Nhật, về tiếp tục dạy học lại ở Viện Đại học Cần Thơ, ở tuổi 34, con người tôi trông thật sung mãn, dù lúc đó tình hình miền Nam Việt Nam thật tối đen ! Cao 164 cm, nặng 65 kg, da trắng, mặt hồng hào vì từ xứ lạnh về, tôi trông thật giống như một người Đại Hàn hay người Nhật lúc bấy giờ ! Thế rồi, sau khi “ Đổi Đời “, sống và làm việc 15 năm dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa, bao nhiêu thịt mỡ dư thừa của nền Tư Bản Chủ Nghĩa, tôi đã trả lại hết cho họ ! Ngày tôi bước lên phi cơ để qua Phần Lan đoàn tụ với con, vợ chồng và đứa con trai lớn của tôi trông…già xọm đi, như một kẻ nghèo đói, thiếu ăn mà các bạn bè, người thân ở nước ngoài, thoạt nhìn vào đều thấy rõ ! Tuy rằng ở trong nước, tôi đang làm việc và sống ở một cơ quan tương đối so với các nơi khác, là trường đại học Cần Thơ. Sau khi tiếp nhận nhà, và ăn ở ổn định, chúng tôi được y tá của cơ quan Y tế & Xã hội tỉnh Porvoo, Phần Lan, hướng dẫn đến Bệnh viện lớn của thủ đô Helsinki để khám sức khoẻ tổng quát, tìm bệnh và điều trị. Tôi được Bác sỉ cho biết tôi đã nhiễm siêu vi trùng Hepatitis B, một chứng bệnh rất phổ biến ở các người sống trong vùng Á Châu Nhiệt đới ( khoảng 70 đến 80 % ), nhưng người ở Phần Lan ít bị lắm.Tôi lại còn bị bệnh Cao huyết Áp ( cao HA ) và cao Cholesterol, hai bệnh sau này thì ở PL có rất nhiều người bị vì ăn uống dư thừa, và quá mập ! Ở PL lúc đó, người ta rất sợ lây bệnh viêm gan này, họ né tránh như sợ người bệnh phong cùi vậy ! Khi đi khám răng, hay làm răng, những người VN, Thái Lan hay Trung Quốc bị bệnh như chúng tôi, được khám phòng riêng, BS nha khoa và y tá đeo khẩu trang, găng tay dài, che hết mình mẩy, chỉ chừa hai mắt thôi ! Hình lá gan Khoẻ mạnh : Hình lá gan bị tàn phá vì siêu vi B : Bà y tá lấy làm lạ, hơi thắc mắc, vì tôi trông ốm, thiếu cân lượng, tại sao lại bị cao HA và cao Cholesterol ? Tôi đáp có lẻ vì sống dưới chế độ Cộng sản, lúc đó đời sống khó khăn, và cái gì cũng lo sợ, nên bị stress, thần kinh căng thẳng và ăn uống không kiêng cử gì hết.( Tôi còn nhớ, lúc đó, anh bạn Nguyễn Thượng Chánh, BS Thú Y ( DVM ), cùng dạy ở VDH/ Cantho, đã vượt biên qua Canada trước đó 1 năm, đã trả lời khi phóng viên phỏng vấn anh : ”Qua đây, ông thấy thích thú cái gì nhất ? ”. Anh trả lời : “ Đó là Tự Do, tôi không còn sợ Công An lúc nào cũng theo dõi và bắt mình bất cứ lúc nào ! “ ). Họ chuyển hồ sơ bệnh của tôi về trung tâm y tế tỉnh Porvoo, để mỗi tuần đi BS khám và theo dõi bệnh. Tôi được y tá của trung tâm đo huyết áp mỗi tuần, với lời dặn là có gì bất thường, cứ đến đây khai báo và xin gặp BS. Lúc bấy giờ huyết áp( HA) tôi là 190 /100 mmHg và cholesterol là 6 mmol/lít. Ở Phần Lan ( PL ) qui định cở tuổi tôi (49 t ), huyết áp (HA) bình thường là 130 /70 mmHg và cholesterol là 5mmol/lít, cao hơn mức đó là có bệnh. Tôi được BS cho uống thử thuốc hạ HA để theo dõi trong vòng 1 tháng, còn Cholesterol, BS bảo chưa cần uống thuốc hạ, chỉ cần trước tiên ăn uống kiêng cử để theo dõi. Chúng tôi được phân phát những tài liệu phổ cập về các loại bệnh này, và cách ăn uống. Đọc xong những tài liệu này, tôi mới thấy, người VN mình ở trong nước lúc đó, như những “ người điếc không sợ súng “, tôi tuy dạy ở đại học, nhưng lúc ấy hiểu biết rất lờ mờ về các chứng bệnh, về cách ăn uống, vì những năm cuối thập niên 80, với chính sách cô lập và bị cô lập, chúng tôi không đọc được sách báo, tài liệu giảng dạy và khoa học nước ngoài. Tôi dạy về Hoá Hữu cơ và thuốc Trừ Dịch (Pesticide), mà chỉ được đọc các sách cơ bản cưa các cán bộ giảng dạy của miền Bắc, rất thô thiển, được Ban Giám Hiệu trường đại học khuyến cáo nghiên cứu dùng nước trích từ hạt cây Bình Bát ( loại giống như cây Mãng cầu ) để diệt sâu rầy, và trị bệnh vi khuẩn của cây lúa ! Thuốc uống thì dùng thuốc trị “Vạn Năng “ Xuyên Tâm Liên để trị bệnh ! Với một cán bộ khoa học mà còn ngu dốt như tôi thì người dân thường cứ lai rai chết vì “ trúng gió”, vì “ ung thư “… là phải rồi !! Tôi được khuyên ăn thịt bỏ mỡ, ăn gà bỏ da và lóc mỡ..v..v.., lần đầu tiên trong đời ! Nhớ lại ở trong nước, lâu lâu, được ăn một tô phở bò nước béo ( hay gà nước béo), là ăn rất …ngon lành. Thịt ba rọi kho tàu nước dừa, mỡ dầy, kho rục...mới ngon, bí rợ, chuối xiêm… hầm nước cốt dừa, ăn ngon “ hết xẩy “ luôn ! ( Vì…lâu lâu mới được ăn mà, cán bộ tiêu chuẩn 1 tháng là 500g thịt cho một người thôi ! ). Ôi, ăn toàn thứ độc đáo ( và độc hại ), làm sao không bệnh được ? ! (Còn bệnh gan Hepatitis B, không biết tại sao tôi lại bị, có lẻ do lây qua kim tiêm ? ). Vài hàng về các loại bệnh : 1.- Bênh Cao Huyết Áp (HA ): Quả tim chúng ta có nhiệm vụ co, bóp để đưa máu chứa ôxy và dưỡng chất nuôi các tế bào trong cơ thể. Sức ép của máu vào thành động mạch gọi là HA.Ta có 2 loại huyết áp : Số HA trên ( khi tim bóp đẩy máu đi nuôi cơ thể ) và số HA dưới ( khi tim nghĩ để máu về tim ). Con số lý tưởng của một người trẻ là 120 /80 mmHg. Người nào bị HA trên con số 140 /90 mmHg là coi như bệnh Cao HA. Bệnh Cao HA thường xảy ra ở người trên 40 tuổi. Bệnh này do nhiều nguyên do : bệnh tiểu đường, mập phì, nghiện thuốc lá, nghiện rượu, căng thẳng thần kinh liên tục..v..v…Người ta dùng máy đo HA ở cánh tay (trên cùi chỏ ) hay ở cườm tay, có loại bóp bằng tay, đặt ống nghe ( BS và y tá thường dùng, chính xác nhất ), hay đo bằng máy đo tự động, có độ chính xác cao. Bệnh nhẹ hay mới bị, HA từ 120-140 / 80-90 mmHg, có thể trị được bằng ăn kiêng, giảm mập, giảm căng thẳng thần kinh, bỏ thuốc lá, rượu..v..v.. Nếu HA cao liên tục hơn 140 /90 mmHg, thì phải trị bằng thuốc, kết hợp các kiêng cử trên. 2.-Cholesterol : có từ thức ăn, chất béo, mỡ, dầu v..v…Bình thường cholesterol cần có, để nuôi dưỡng tế bào cơ thể, và được tích luỹ ở gan. Ở PL, mức Cholesterol phải dưới 5mmol /lít trong máu, trên con số đó là bị bệnh. Bị Cholesterol cao do ăn nhiều chất béo, mỡ động vật, dầu có chứa acid béo bão hoà hay Transfatty Acid ( thường có do chiên, xào dầu ở nhiệt độ cao quá, hay có do phương cách công nghiệp shortening hydro hoá dầu như mì gói, khoai tây chiên, Hamburger, Mc Donald, thức ăn nhanh..v..v. .). Nếu mức Cholesterol còn tương đối ( 5 – 6 mmol /l ), có thể giảm do kiêng cử, tập thể dục, ăn thức ăn, rau cỏ làm giảm cholesterol. Khi đo cholesterol, người ta ghi 3 con số : cholesterol tổng quát, HDL ( tốt ) và LDL ( xấu ). Tiêu chuẩn ở PL là LDL phải dưới 3 mmol/l, và HDL phải trên 1mmol/l trong máu. 3.- Bệnh Viêm gan Siêu vi Hepatitis B : Có 3 loại bênh Viêm gan Hepatitis A, B, và C. Người Á Châu và VN ta thường bị loại B ( 70- 80 % ). Bệnh do nhiễm siêu vi trùng, do lây lan qua kim tiêm, tiếp xúc…Hiện nay có thuốc chủng ngừa, nhưng không có thuốc trị. Bệnh nhẹ có thể hết do sức đề kháng của cơ thể, môi trường sống tốt…Bệnh nặng vàng da, sưng gan, biến thành ung thư gan rồi chết. Bệnh có thể tiềm ẩn trong cơ thể rất lâu, nếu người mạnh khoẻ, sức đề kháng tốt, mà không có biến chứng gì cả. Người bị bệnh này cần kiêng cử rượu nhất ! ************************ Sau gần 1 năm học tiếng PL, tôi được đi thực tập và may mắn được nhận vào làm việc luôn ở Trung Tâm Kỹ Thuật hảng Lọc Dầu và Hoá Chất Neste Oil Company. Vẫn y tá đo HA mỗi tuần, và uống thuốc hạ HA mỗi buổi sáng 2 viên ( 1 viên để hạ Tâm thu, 1 viên hạ Tâm trương ). Lúc đó HA tôi là 150-160/ 80-90 mmHg, và mức Cholesterol là 5,7mmol/l, vẫn còn khá cao, BS phải thay thuốc và theo dõi ! Ở PL, nếu đi làm việc, tiền khám bệnh và thuốc men, Công ty trả ; nếu bị thất nghiệp, cơ quan An Sinh Xã Hội ( KELA ), sẽ tài trợ 50%, phần còn lại, phòng Y tế & Xã Hội trả hết ( nếu là người Tị Nạn có thẻ Xanh, hay người quốc tịch PL ; nếu là người có hôn nhân với một người có thẻ xanh, hay có quốc tịch PL, thì người phối ngẫu phải trả, đến khi có thẻ xanh ). Trong vòng 2 năm, chúng tôi đã trắng da, dài tóc, da mặt hồng nhuận trở lại. Trong vòng 10 năm sau, với thuốc hạ HA và ăn uống điều độ, HA tôi có giảm, nhưng vẫn ở mức 145-150/80-85mmHg và mức Cholesterol là 5,5 mmol/lít. Còn bệnh Hepatitis B vẫn còn đeo theo mãi trong tôi. Năm 2000, tôi có dịp rảnh hơn, do công tác ổn định, tôi tiếp xúc thường xuyên với Internet (tuy trong cơ quan, tôi vẫn dùng máy vi tính mỗi ngày ), đọc nhiều tài liệu y khoa hơn. Các trang web, các trang báo điện tử..v..v.., sau phần xem tin tức VN, tin thế giới, giải trí..v..v.., tôi đều xem các mục sức khoẻ và y học ! Các bài báo của các BS Nguyễn Ý Đức, Nguyễn Trần Hoàng, Nguyễn Thượng Chánh (bạn tôi ) …v..v.., đều được tôi xem kỹ và lưu trữ lại. Tôi nhờ người thân ở VN gửi lá phơi khô, hoặc thân, nhánh, rễ cây Ạc Ti Sô qua PL, nấu nước uống mỗi ngày. Sau đó, nhân dịp đi học thêm bổ túc về điện toán, một anh người PL rất mập ( 32 tuổi, cao 175 cm, nặng 120kg ), học chung, bảo tôi nên ăn thêm hạt Lanh (flaxseeds) để trị bệnh.Tôi bèn sưu tầm thêm tài liệu, để có một số hiểu biết cơ bản các loại cây cỏ thiên nhiên mà tôi sẽ dùng. Sau đây là những tính chất sơ lược và căn bản của các loại đó: 1.- Hạt Lanh (flaxseeds) trồng nhiều ở Canada, rất giàu chất Alphalinoleic acid hay acid béo Omega 3 và chất Lignan. Các chất này làm hạ Cholesterol trong máu, hạ HA, làm máu loãng không nghẹt các mạch máu trong các huyết quản, trị bệnh tim mạch và là nhóm chống Oxid hoá mạnh (Lignan ), ngừa ung thư( ngực, tuyến tiền liệt, ruột v..v..).Vỏ của hạt flaxseeds rất cứng, giàu chất xơ (fibers) rất tốt cho tuần hoàn huyết, thận và ruột. 2.-A.c Ti Sô (Artichoke ) : có tính chất làm ta ăn ngon ( mau tiêu cơm ), lợi tiểu, có nhiều Vitamin A, B1, B9, Kalium, Phosphore, Sắt ( Fe ), Mangan ( Mn) và chất Cynarine, Tyrosine. Nó giúp hạ đường huyết trong bệnh tiểu đường, hạ Cholesterol, tiết mật nhiều, lọc máu, nhuận gan ( chất Cynarine và Tyrosine ). Ở PL chỉ có bán bông Ạc Ti Sô và củ Ạc Ti Sô đất ( hình giống như củ gừng, nhưng to cở củ sắn VN, giá khoảng 5- 6 euro/500g ). 3.- Trà xanh (Green tea ): Trà là thức uống thông dụng của người Trung Quốc, Việt Nam và nhiều sắc dân khác.Trà được chế biến và ướp nhiều hương vị đặc biệt khác nhau. Tài liệu khoa học cho thấy trà đã được ủ lên men, và trà xanh chưa qua quá trình lên men, ướp tẩm gì cả đều có tính chất tốt về sức khoẻ cho người tương tự nhau. Trà chứa nhiều cafein ( hơn cà phê ), chất khoáng, chất Tanin, Fluor, R-Amono acid, vitamin A, B complex, C ( một cốc nước trà nhiều hơn một cốc nước cam vắt ), K và E. Trà có rất nhiều chất Catechin Polyphenols, có tính chống oxid hoá rất mạnh, bảo vệ tế bào chống sự huỷ hoại bởi các gốc tự do (free radical), ngừa nhiều bệnh ung thư. Trà còn giúp kiện toàn các động mạch máu, ngừa các chứng bệnh về tim mạch. Trà còn giúp giảm Cholesterol, quân bình lượng đường trong máu, giảm HA, chống một số vi khuẩn, chống hiện tượng lão hoá (già ) của con người và tăng cường hệ thống miễn dịch của cơ thể. 4.-Ngũ cốc nguyên vẹn (whole grain ) còn nguyên cám và mầm: Chất xơ (fibers) và các chất Vitamin bổ dưỡng khác trong ngũ cốc nguyên vẹn ( gạo lức, luá mì, lúa mạch, bắp..v..v…) giúp giảm Cholesterol, giảm mức đường trong máu, giảm nguy cơ bị nghẽn động mạch, đưa đến đau tim và đột quị (stroke ). Các thực phẩm làm từ bột trắng như : bánh mì trắng, bánh ngọt và các thực phẩm ăn vặt khác ( snack food ) không có được các tính chất trên. 5.- Rượu Vang đỏ (Red wine ) : Chất Resveratrol ( một loại Polyphenol ) trong vỏ trái nho làm ra rượu vang đỏ, có tính chất chống Ôxy hoá, chống viêm sưng, chống ung thư và kéo dài tuổi thọ. (Chú thích của LM: Nhưng quí mít khô nên lạm dụng uống mỗi ngày 1 chai nhé ) Image Vì thế, từ năm 2000 đến nay, tôi bắt đầu hệ thống hoá lại cách ăn uống, mà trước kia có làm nhưng không liên tục lắm. Tôi bèn dùng phương thức Tổng Hợp : uống thuốc hạ HA để kiềm chế HA, kết hợp việc dùng cây cỏ thiên nhiên, tập thể dục và ăn uống điều độ để trị bệnh. Mỗi ngày, thức dậy lối 5g sáng, sau khi làm vệ sinh, tôi tập thể dục nhẹ trong phòng khoảng 15- 20 phút. Bài tập thể dục này do tôi nghĩ ra, dùng cho tuổi già ( 66 tuổi ), chỉ là các vận động nhẹ nhàng, nhưng cử động đủ cả đầu cổ, tay chân, eo, bụng v..v…, mỗi thế chừng 40 cáị Ăn điểm tâm mỗi buổi sáng dùng toàn bánh mì đen làm từ lúa mạch (malt ) còn nguyên hạt với thịt jambon ít mỡ (3% mỡ), hay cá mòi sardine, mackerel đã làm lại bằng cách trộn thêm cà rốt, cà tô mát, củ lanttu (swede) xay nhuyển.Tôi dùng loại bơ nhân tạo margarine để trét lên bánh mì. Ở PL, có sản xuất loại margarine từ dầu thực vật ( olive, dầu cải, hướng dương…v..v..) gia thêm dầu stanol ( dầu trích từ võ một loại thông ) có tính hạ Cholesterol rất nổi tiếng như hiệu Benecol chứa 23 hay 35 % chất béo ( có bán ở Mỹ). ( giá 1 hộp margarine 400g loại này là 5,10 euro, trong khi margarine thường (thêm Vitamin A, D ) là 1,50 eurọ). Theo tôi biết, margarine ăn ít không có hại, chỉ đừng dùng chiên, xào..v..v…, vì khi nhiệt độ cao, chất béo này sẽ chuyển hoá thành Transfatty acid, rất có hại ( trên nấp hộp, có ghi rõ, không dùng để chiên, xào hay nướng thịt ). Điểm tâm buổi sáng có thêm 1 ly cà phê sữa ( sữa tươi đã giảm béo rồi, còn 1,5 % chất béo ). Ở PL, cà phê sản xuất từ hột cà phê ở Nam Mỹ, chế biến lạị giảm bớt lượng cafein, và sữa tươi có 4 loại phổ biến : sữa màu đỏ nguyên chất béo ( 2,5 % ), sữa màu xanh đậm chứa 1,5 %, sữa màu vàng chứa 1%, và sữa màu xanh nhạt chứa 0 % chất béo. Xong đọc báo, hay xem tin tức ở Internet, và chuẩn bị đi làm, sau khi uống 2 viên thuốc hạ HA ( uống suốt đời ) như thường lệ Ăn trưa ở công ty, tôi thường đem đồ ăn chế sẵn ở nhà đem theo dùng. Ở nơi đây, có phòng nhỏ, chứa độ 20 người, để ăn sáng, ăn trưa, liên hoan nhóm cho các nhà khoa học nghiên cứu cùng đề tài tương tự nhau.Trong phòng có tủ lạnh, lò vi ba (microwave ), máy lọc cà phê, máy nướng bánh mì, lò điện..v..v.. Thức ăn trưa của tôi là cháo. Tôi chế biến ở nhà sẵn như sau : - 2 lít nước + 6 muỗng cà phê hột Lanh ( flaxseeds) ngâm từ 3 giờ trở lên, để vỏ mềm và tươm dầu ra. - Sau đó, cho vào 500ml bột ngũ cốc ( làm từ nhiều loại như : lúa mì, kiều mạch, đại mạch …) còn nguyên hạt. Bột này đã được sơ chế thành các mảnh vụn, nhẹ, lớn bằng móng tay út, chỉ cần nấu 5 phút là chín. - Tôi thêm chút xíu đường, muối, và quậy đều hoài trên bếp cho sôi. Chờ thêm 10 đến 15 phút, tắt lửa, nó thành một nồi cháo đặc. Một nồi như vậy, khi nguội, để vào tủ lạnh, ăn được 3 buổi trưa. Ăn như cháo thường, như với cá kho, thịt kho, thịt rim, phá lấu..v..v… Về thức uống : Tôi dùng một nồi chứa 3 lít nước, bỏ vào đó khoảng 30g lá (độ 1 nắm tay ) Ạc Ti Sô khô ( ở VN gửi qua ) và 1 nhúm (độ 10g ) trà Ô Long xanh. Nấu sôi khá lâu ( độ 30 phút ) để ra nước cốt), để nguội, lọc xác (để dành nấu thêm 1 lần nữa), bỏ tủ lạnh uống suốt cả ngày. Khi nào khát nước, tôi uống nưóc đó, không dùng nước giải khát nào khác. Nước có gas, Coca Cola..v..v.. , tôi rất ít khi uống, trừ khi đi dự các đám tiệc. Bia, rượu, tôi cũng ít uống ; khi dự đám tiệc, nhiều lắm là uống 2 lon bia, rượu mạnh ( 40 độ cồn), tôi không uống bao giờ! Hai ngày, tôi có uống 1 ly nhỏ rượu vang đỏ ( từ nho đỏ ) sau khi ăn cơm chiều. Trước năm 1975, tôi có hút chút ít thuốc lá (kiểu “ tài tử “ mỗi khi gặp bạn bè (trung bình 2 hay 3 ngày /1 điếu ba số 5 đầu lọc ). Có quẹt gas, gói thuốc trong túi để…” làm kiển “, nên 1 tháng hút chưa hết 1 gói Ba Số là…thường ! Sau 30 tháng 4 năm 75, tôi bỏ luôn ! Chiều về, tắm rửa, nghỉ một chút lại tập thể dục ( giống như buổi sáng ), hoặc đi bộ. Thường một tuần lễ, tôi đi bộ 4 buổi chiều ( thứ ba, năm, bảy và chúa nhật ), trước khi ăn cơm tối.Tôi đi bộ hơi nhanh một chút, không dừng lại nghĩ, trong vòng 1 giờ, độ 8 km. Mưa, gió, tuyết rơi, cũng quyết tâm đi như vậy, chỉ cần mặc áo quần đủ ấm, trong vòng 7 năm nay (từ 2000 đến 2007), tôi chưa bị bệnh cảm, cúm, nhức đầu, sổ mũi bao giờ! Thỉnh thoảng có nhức mõi tay chân đôi chút, tôi dùng tập thê+ dục để trị liệu, hết luôn, gần như tôi không bao giờ uống thuốc trị nhức mõi. Bình thường, mỗi ngày, tôi chỉ ăn cơm ( như người VN ) buổi chiều thôi. Món ăn ít chiên xào, ít dùng dầu ăn ( dù là dầu thực vật ), ăn thịt, cá, rau cải bình thường, nhưng thịt bỏ da, lóc mỡ. Rau cải, trái cây bán hạ giá ở chợ, mua về để ở phòng lạnh ăn dần, và ăn rất nhiều ! Theo lời các BS khuyên, lớn tuổi rồi phải giảm ( hay bớt ) 3 thứ: giảm ăn béo, giảm mặn, giảm đường và thêm 3 thứ : tập thể dục ( thư giản, nghĩ ngơi…), ăn rau cải ( cũ, hạt..v.v..), và trái cây ! Các món ăn tươi hay đóng hộp của VN, Trung quốc, Thái Lan có dùng nhưng rất ít, vì tôi không tin tưởng an toàn lắm ! Chỉ những món không ăn không được ( hay thèm quá), như : gạo, nước mắm,… bắt buộc xài thôi ! Nước tương, tàu vị iểu mua chai 1kg của hảng Nestlé sản xuất ở Pháp hay Thuỵ sỉ, tôi sợ nước tương của TQ, VN hay Thái lắm. Tương hột hay đậu hủ, chao có thèm thì…tự làm lấy ở nhà, không ngon, nhưng an toàn ! ( Ông Kỹ Sư Hoá học (tốt nghiệp ở Pháp ) Lâm Văn Vãng, có viết một quyển sách nhỏ dạy làm các thứ đó ). Rau cải, thịt, cá..v..v…tôi mua ở chợ PL cho …chắc ăn, dù có mắc hơn một chút, vì PL là xứ kiểm dịch thực phẩm rất gắt, khó hơn EU nữa ! Thực phẩm từ các nước khác ( kể cả các nước Châu Á ), nhập vô PL, đều phải có nhãn hiệu, viết bằng tiếng PL, ghi rõ tên, xuất xứ, thành phần, ngày hết hạn..v..v…, và đều bị kiểm dịch rồi, mới được bán. Tôi kiên nhẫn làm đúng như trên, riết thành thói quen, đến năm 2005, khi kiểm tra sức khoẻ và thử máu, tôi được BS ở Trung Tâm Y tế cho biết là tôi không còn bị Hepatitis B nữa ! Tôi không tin ở tai mình, hỏi BS xem kỹ lại, ông xác nhận đúng, và một tháng sau, tôi xin thử máu để xét bệnh lần nữa, kết quả tốt như cũ ! Cầm kết quả xét nghiệm máu, nước tiểu, tim mạch, đều tốt không ngờ được. HA tôi là 128/69 mmHg, nhịp tim (pulse) 67, Cholesterol là 4,7 mmol/l, LDL là 2,87 mmol/l ( tiêu chuẩn < 3 mmol /l ), HDL là 1,93 (tiêu chuẩn là trên 1 mmol/l ), đường huyết là 5,6 mmol/l ( tiêu chuẩn là 4.2 đến 6,3 ). Hai năm sau, ngày 13 tháng 5 năm 2007, tôi đi xét nghiệm, kết quả là: HA 129/70 mmHg, nhịp tim 68, Cholesterol 4,5mmol/l, đường huyết là 5,5mmol/l., tương đối ổn định. Tóm lại : - Mỗi buổi sáng uống 2 viên thuốc hạ HA ( Lisipril 10 mg và Norvasc 5 mg ), nếu bị cao HA như tôi. - Ăn bánh mì đen, ngũ cốc còn nguyên hạt. - Ăn thịt động vật bỏ da, lóc mỡ bỏ. Dùng dầu thực vật nấu ăn (dầu cải Canola, dầu Hoa Hướng Dương…, dầu Olive càng tốt ). - Ăn bớt mặn, béo và ngọt. Ít ăn mì gói, Hamburger, khoai tây chiên (chip ), fastfood…Ăn nhiều cá sống ở xứ lạnh ( có mỡ như cá Thu, Hồi, Sardine, Mackerel…), nhiều rau cải xanh, nhiều trái cây. ( Ít ăn đồ ăn từ các nước Châu Á, vì lý do an toàn thực phẩm ). - Ăn cháo ngũ cốc còn nguyên hạt với hạt Lanh ( flaxseeds ) mỗi ngàỵ. - Uống suốt ngày nước trà-Ạc Ti Sô. - Kiêng thuốc lá, rượu mạnh. ( bia uống ít thôi ). Nên uống rượu vang đỏ mỗi ngày 1 ly nhỏ càng tốt. - Tập thể dục nhẹ mỗi ngày 2 lần, ( 15 đến 20 phút / lần ). Mỗi tuần nên đi bộ 3 hay 4 ngày (hơi nhanh, đừng đi rề rề…), mỗi ngày độ 1 giờ. Quan trọng nhất là quyết tâm và kiên trì với chính mình, mọi bệnh tật sẽ tiêu tan. Tôi phải kể thêm là môi trường sống ở Phần Lan rất sạch, tốt đẹp, an toàn, yên bình ( tuy có … nghèo hơn so với các nước khác ), đã góp phần vào làm con người sống khoẻ, sống thọ, an vui… Phần Lan, Hè 2007 Trần Châu Tôi cũng đã khắc phục được Viêm Gan C bằng cách dùng 1 loại tương tự như Artichoke mà người Tây phương gọi là Wild Artichoke. Loại cỏ nầy mọc hoang dẫy đầy ở vùng khí hậu lạnh như Mỹ và Canada, có tên MILK THISTLE. Nếu Quí Vị interested, tôi sẽ gởi đầy đủ chi tiết buutran1942@yahoo,com Tài liệu tham khảo: - Các bài báo về các bệnh, về Sức khoẻ của các BS Nguyễn Ý Đức, Nguyễn Trần Hoàng, Nguyễn Thượng Chánh …v..v… trên các trang web : Y Dược ngày nay.com, ERCT.com, Khoa Học net.com v..v… - mục Sức Khoẻ trên các báo điện tử : BBC News, Người Việt, VN Express v…v… - tìm kiếm ở Google.com
|
|
|
Post by NHAKHOA on May 26, 2010 13:43:02 GMT -5
Viêm gan do siêu vi khuẩn (viral hepatitis)
Bác Sĩ Trần Lý Lê @ TVVN
Bài I -Tổng quát
Đây là những chứng viêm gan do nhiễm trùng từ siêu vi khuẩn. Có nhiều loại siêu vi khuẩn gây viêm gan: A, B, C, D, và E. Tất cả các siêu vi khuẩn kể trên gây viêm gan cấp tính (acute hepatitis). Riêng siêu vi khuẩn B, C, và D còn có thể gây viêm gan mãn tính (kinh niên, chronic hepatitis), kéo dài đến suốt đời. Viêm gan mãn tính có thể dẫn đến chứng xơ gan (cirrhosis), suy gan (liver failure) và ung thư gan (liver cancer, hepatoma).
Một số siêu vi khuẩn khác cũng gây nhiễm trùng gan nhưng ít xuất hiện như cytomegalovirus, Epstein-Barr virus, herpesvirus, parvovirus và adenovirus.
Triệu chứng thường bao gồm:
• Vàng da, vàng mắt • Mệt mỏi, mất sức • Đau bụng • Không muốn ăn uống • Buồn nôn, ói mửa • Tiêu chảy • Sốt • Nhức đầu Tuy nhiên, có một số bệnh nhân không bị triệu chứng nào.
Viêm gan A
Viêm gan A truyền từ người này sang người khác qua thức ăn, nước uống ô nhiễm bởi phân từ người bị bệnh. Hiếm khi bệnh lan truyền qua máu.
Những người dễ bị viêm gan A:
• Du lịch, nhất là qua những vùng đất lạc hậu, chậm tiến • Chung sống, giao hợp với người bị bệnh • Sống tại những vùng bị dịch hoặc nơi trẻ em không được chủng ngừa • Nhà giữ trẻ: trẻ em và cả người chăm sóc trong trận dịch • Đồng tính nam phái • Dùng ma túy
Phòng ngừa:
Thuốc chủng ngừa viêm gan A tạo sự miễn nhiễm cho người lớn và trẻ em trên 1 tuổi. Trung Tâm Kiểm Soát và phòng Ngừa Bệnh Tật (CDC) khuyến cáo nên chủng ngừa cho trẻ em tuổi từ 12-23 tháng và chủng ngừa cho những người lớn dễ bị nhiễm trùng. Có thể dùng immune globulin để tạo sự đề kháng chống lại viêm gan A trước khi hoặc trong vòng 2 tuần lễ khi tiếp xúc với người bệnh hoặc đến nơi đang có trận dịch.
Tránh dùng nước máy khi du lịch, giữ vệ sinh kỹ lưỡng khi ăn uống cũng giúp ngăn ngừa viêm gan A.
Chữa trị: Việc chữa trị thường không cần thiết, chứng viêm gan A tự phục hồi.
Viêm gan B
Viêm gan B lan truyền qua máu bị nhiễm trùng, qua việc giao hợp với người bị bệnh, từ mẹ đến hài nhi.
Những người dễ bị viêm gan B:
• Chung sống hoặc giao hợp với người bệnh • Nam nhân đồng tính • Giao hợp với nhiều người • Dùng ma túy qua kim chích • Di dân và con cái từ những nơi bị nhiễm trùng viêm gan B • Hài nhi từ người mẹ bị bệnh • Chuyên viên Y Tế • Người dùng máy lọc thận • Nhận máu trong những năm trước 1987, khi chưa có những phương cách thử nghiệm máu từ người tặng • Du lịch quốc tế
Phòng ngừa:
Thuốc chủng ngừa viêm gan B tạo tính đề kháng. Hài nhi, trẻ em chưa chủng ngừa, người lớn đều cần chủng ngừa viêm gan B. Những người chưa được chủng ngừa cần cẩn thận khi tiếp xúc với máu và dịch thể (chất lỏng từ cơ thể như tinh dịch, nước miếng…) của kẻ khác. Nghĩa là dùng “áo mưa” (condom) khi giao hợp, tránh dùng chung bàn chải đánh răng, dao cạo, kéo cắt móng tay chân với người bị bệnh.
Chữa trị:
Hiện tại, cách chữa trị bao gồm alpha interferon và peginterferon; các thuốc này làm chậm sự sinh sản của siêu vi khuẩn và gia tăng sức đề kháng của cơ thể và những loại kháng sinh như lamivudine, adefovir dipivoxil, entecavir và telbivudine. Những loại thuốc khác còn trong vòng thử nghiệm. Hài nhi từ người mẹ bị bệnh cần được chữa trị với viêm gan B immune globulin và chủng ngừa trong vòng 12 tiếng sau khi ra đời để ngừa nhiễm trùng.
Những người bị viêm gan B mãn tính thường không cần dùng thuốc kháng sinh vì, tùy theo tuổi tác, cơn nhiễm trùng sẽ tự dứt. Hài nhi bị nhiễm trùng thường trở thành mãn tính; nhưng người trẻ tuổi khi bị nhiễm trùng cấp tính thường khỏi bệnh.
Viêm gan C
Viêm gan C thường lan truyền qua máu, đôi khi lan truyền qua việc giao hợp và mẹ-hài nhi.
Những người dễ bị viêm gan C:
• Dùng ma túy qua kim chích • Giao hợp với người bị bệnh • Giao hợp với nhiều người • Chuyên viên Y Tế • Hài nhi từ người mẹ bị bệnh • Người dùng máy lọc thận • Nhận máu trong những năm trước tháng Bảy năm 1992 khi việc truy tìm dấu viêm gan C trong máu người tặng chưa được sử dụng • Nhận chất đông máu (clotting factor) trong những năm trước 1987, khi chưa có những phương cách thử nghiệm máu
Ngăn ngừa:
Hiện nay chưa có thuốc chủng viêm gan C. Cách ngăn ngừa duy nhất là giảm các yếu tố truyền nhiễm; nghĩa là không dùng chung kim chích, những vật dụng cá nhân như bàn chải đánh răng, dao cạo, kéo cắt móng tay với người bị bệnh.
Chữa trị:
Viêm gan C mãn tình được chữa trị bằng peginterferon và thuốc kháng sinh ribavirin. Khi chứng viêm gan C cấp tính không tự thuyên giảm trong vòng 2-3 tháng, nên dùng cách chữa trị kể trên.
Viêm gan D
Viêm gan D lan truyền qua máu. Chứng nhiễm trùng này chỉ xuất hiện khi bị viêm gan B cùng lúc hoặc đã bị viêm gan B trong quá khứ.
Những người dễ bị viêm gan D:
• Những người bị hoặc đã bị viêm gan B • Dùng ma túy qua kim chích • Nhận chất đông máu (clotting factor) trong những năm trước 1987, khi chưa có những phương cách thử nghiệm máu
Ngăn ngừa:
Những người chưa bị viêm gan B nên chủng ngừa. Tránh việc tiếp xúc với máu, dịch thể, không dùng chung kim chích, những vật dụng cá nhân như bàn chải đánh răng, dao cạo, kéo cắt móng tay với người bị bệnh.
Chữa trị:
Viêm gan D mãn tính được chữa trị bằng peginterferon; các cách chữa trị khác còn nằm trong vòng thử nghiệm.
Viêm gan E
Viêm gan E lan truyền qua thức ăn, nước uống bị ô nhiễm với phân của người bệnh. Chứng viêm gan E rất hiếm thấy tại Hoa Kỳ.
Những người dễ bị bệnh:
• Du lịch quốc tế, nhất là đến những vùng đất nghèo khó, lạc hậu • Sinh sống trong những vùng bị dịch viêm gan E • Chung sống hoặc giao hợp với người bị bệnh
Ngăn ngừa:
Không có thuốc chủng ngừa viêm gan E. Cách ngăn ngừa duy nhất là tiết giảm sự lan truyền qua việc tránh dùng nước máy khi du lịch, giữ vệ sinh trong việc ăn uống và tiếp xúc với người địa phương.
Chữa trị:
Viêm gan E tự thuyên giảm sau nhiều tuần hoặc nhiều tháng.
Những điểm chính yếu:
1. Viêm gan do siêu vi khuẩn do siêu vi khuẩn A, B, C, D, hoặc E 2. Tùy theo loại siêu vi khuẩn, bệnh lan truyền qua qua thức ăn hoặc nước uống nhiễm độc, tiếp xúc với máu người bệnh, giao hợp với người bệnh hoặc từ mẹ-hài nhi. 3. Chủng ngừa viêm gan A và viêm gan B để tránh bệnh tật 4. Không có thuốc chủng ngừa cho viêm gan C, viêm gan D, viêm gan E, cần tiết giảm sự truyền nhiễm qua cách sống vệ sinh, giữ gìn sức khỏe. 5. Viêm gan A và viêm gan E tự lành bệnh không cần chữa trị. Viêm gan B, viêm gan C, viêm gan D có thể thành bệnh mãn tính và trầm trọng, chữa trị qua một số thuốc men.
|
|
|
Post by NHAKHOA on May 26, 2010 13:43:48 GMT -5
Bài II - Viêm gan B
Viêm gan B do siêu vi khuẩn viêm gan B gây nhiễm trùng và hư hoại gan. Đây là một vấn nạn toàn cầu và là loại viêm gan trầm trọng nhất trong các loại viêm gan do nhiễm trùng siêu vi khuẩn. Viêm gan B gây chứng viêm gan mãn tính dẫn đến xơ gan và ung thư gan.
Trên thế giới có khoảng 2 tỷ người bị nhiễm trùng siêu vi khuẩn viêm gan B (hepatitis B virus hay HBV), và trên 350 triệu người bị viêm gan mãn tính.
Thuốc chủng ngừa viêm gan B được bắt đầu từ năm 1982, 95% hiệu nghiệm trong việc ngăn ngừa nhiễm trùng viêm gan B và các biến chứng liên hệ, đây cũng là loại thuốc chủng ngừa ung thư đầu tiên.
Triệu chứng Siêu vi khuẩn viêm gan B gây nhiễm trùng cấp tính với các triệu chứng kéo dài nhiều tuần lễ bao gồm vàng da và vàng mắt, nước tiểu đậm màu, mệt mỏi, buồn nôn, ói mửa và đau bụng. Bệnh nhân cần nhiều tháng để hồi phục sức khỏe. Siêu vi khuẩn viêm gan B cũng gây nhiễm trùng mãn tính và biến chứng như xơ gan hoặc ung thư gan.
Những người có nguy cơ bị viêm gan B mãn tính: - Số tuổi lúc bị nhiễm trùng: càng trẻ tuổi, nguy cơ bị biến chứng mãn tính càng cao, 90% hài nhi bị nhiễm trùng chịu biến chứng nhiễm trùng mãn tính; 30% -50% trẻ em bị nhiễm trùng trong 1-4 tuổi chịu biến chứng mãn tính; khoảng 25% người lớn bị nhiễm trùng trong thủa ấu thời chết vì xơ gan hoặc ung thư gan. - Khoảng 90% người lớn bị nhiễm trùng sẽ khỏi bệnh trong vòng 6 tháng.
Viêm gan B đang hoành hành tại Hoa Lục và một số quốc gia Á Châu. Hầu hết người bệnh bị nhiễm trùng trong tuổi thơ ấu, khoảng 10% người lớn bị nhiễm trùng mãn tính. Tại các quốc gia này, ung thư gan do siêu vi khuẩn viêm gan B là nguyên nhân gây tử vong do ung thư cao nhất trong nam phái. Tại Trung Đông và Ấn Độ, khoảng 2% - 5% người lớn bị nhiễm trùng mãn tính. Ngược lại tỷ lệ nhiễm trùng mãn tính rất thấp tại Âu Châu và Hoa Kỳ (<1%).
Tính truyền nhiễm Siêu vi khuẩn viêm gan B lan truyền giữa con người qua máu và dịch thể (tinh dịch và âm thủy) của người bị bệnh. Tương tự như cách truyền nhiễm của HIV nhưng HBV lan truyền mạnh mẽ gấp 100 lần, siêu vi khuẩn viêm gan B có thể sống bên ngoài cơ thể nhiều ngày (7+ ngày); trong thời gian này, siêu vi khuẩn có thể xâm nhập cơ thể người khỏe mạnh và gây nhiễm trùng.
Tại những nơi nghèo khó cách truyền nhiễm do HBV bao gồm: -Thời gian mang thai (truyền từ mẹ sang con). -Thời thơ ấu (nhiễm trùng do sự gần gũi chung sống dưới một mái nhà). -Dùng kim chích chung với kẻ khác. -Được truyền máu. -Giao hợp với người bị bệnh.
Tại những quốc gia giàu có, sự truyền nhiễm xảy ra trong giới trẻ, qua việc giao hợp và chích ma túy. Nhiễm trùng siêu vi khuẩn viêm gan B là vấn nạn lớn nhất về nghề nghiệp của những người hành nghề chăm sóc sức khỏe. HBV không lan truyền qua thức ăn hoặc nước uống nhiễm trùng và khó lan truyền một cách ngẫu nhiên tại công sở.
Siêu vi khuẩn trưởng thành trung bình trong 90 ngày (nhưng có thể thay đổi trong 30 - 180 ngày). Ta có thể tìm thấy HBV 30-60 ngày sau khi nhiễm trùng và một thời gian khá dài sau đó.
Chữa trị Không có cách chữa trị đặc biệt nào cho chứng nhiễm trùng cấp tính. Việc chữa trị nhắm đến việc phục hồi sức khỏe, ăn uống bổ dưỡng, nghỉ ngơi; tiếp nước biển nếu cần (do tiêu chảy và ói mửa).
Nhiễm trùng mãn tính được chữa trị bằng interferon alpha và một số thuốc kháng sinh (anti-viral drug). Cách chữa trị này tốn nhiều ngàn mỹ kim và các miền đất nghèo không thể cáng đáng nổi. Tại các quốc gia nghèo khó, bệnh nhân bị ung thư chết trong vòng vài tháng trong khi tại những nơi giàu có, giải phẫu và hóa chất trị liệu có thể kéo dài đời sống bệnh nhân vài năm.
Bệnh nhân bị xơ gan được ghép gan mới, mức thành công tùy thuốc nhiều yếu tố như tình trạng sức khỏe tổng quát, tuổi tác ...
Phòng ngừa Tất cả mọi trẻ em cần được chủng ngừa, đây là cách phòng ngừa duy nhất. Thuốc chủng ngừa được chích làm 3-4 lần, theo chương trình chủng ngừa của trẻ em. Tại những nơi nghèo khó, với tỷ lệ truyền bệnh từ mẹ đến con cao, hài nhi cần được chủng ngừa ngay khi chào đời. Khi chủng ngừa đầy đủ, lượng kháng thể chống lại siêu vi khuẩn viêm gan B sẽ bảo vệ 95% trẻ em và người lớn. Sau tuổi 40, mức bảo vệ khoảng 90%, vào tuổi 60, lượng kháng thể bảo vệ cơ thể còn khoảng 75%. Sự bảo vệ kéo dài suốt cuộc đời. Trẻ em và người lớn cần được chủng ngừa nếu chưa chủng ngừa nhất là những người: -Giao hợp với nhiều người khác nhau. -Bạn tình và người chung sống bị nhiễm trùng. -Chích ma túy. -Cần dùng máu hoặc các thành phần của máu thường xuyên. -Được ghép bộ phận. -Làm công việc chăm sóc sức khỏe. -Người du lịch nhiều nơi nhất là những nơi nghèo khó lạc hậu.
Từ năm 1982, đã có cả tỷ người được chủng ngừa khắp thế giới, thuốc chủng ngừa an toàn.
*Tài liệu của WHO và CDC
|
|
|
Post by NHAKHOA on May 26, 2010 13:45:49 GMT -5
Bài III - Viêm gan C Viêm gan C do nhiễm trùng siêu vi khuẩn gây ra sự hư hoại tại gan. Hầu hết những người bị nhiễm trùng không có triệu chứng nào, họ không biết rằng mình bị nhiễm trùng cho đến khi suy gan xuất hiện, mấy chục năm về sau, qua việc thử máu định kỳ. Viêm gan C là tên một trong những siêu vi khuẩn gây viêm gan và được xem là loại siêu vi khuẩn gây nhiễm trùng trầm trọng nhất. Viêm gan C lan truyền qua máu, hầu hết từ việc dùng chung kim chích ma túy. Triệu chứng Viêm gan C không gây triệu chứng nào đáng kể trong giai đoạn khởi đầu, người bị nhiễm trùng có thể: · mệt mỏi · sốt · buồn nôn, kém ăn · đau bắp thịt và khớp xương · đau ở vùng bụng Nguyên nhân Viêm gan C do siêu vi khuẩn viêm gan C gây ra, lan truyền qua máu như khi: · Truyền máu và ghép bộ phận trong những năm trước 1992, khi chưa có các phương thức thử nghiệm máu để tìm dấu vết nhiễm trùng viêm gan C. · Dùng chung kim chích · Sanh nở: Hài nhi nhiễm trùng do máu truyền từ người mẹ. · Qua việc giao hợp với người bị bệnh dù hiếm khi xảy ra Những yếu tố gia tăng nguy cơ bị viêm gan C: - Chuyên viên chăm sóc sức khỏe, tiếp xúc với người và máu nhiễm trùng - Chích ma túy và xài chung kim chích với kẻ khác - Bị nhiễm trùng HIV - Xâm mình hoặc xỏ lỗ tai, lỗ mũi, lỗ rốn để đeo bông... qua những dụng cụ không được khử trùng kỹ lưỡng - Được truyền máu hoặc ghép bộ phận trước năm 1992 - Được truyền chất đông máu trước năm 1987 - Lọc thận trong một thời gian lâu dài - Mẹ bị nhiễm trùng viêm gan C khi mang thai và sanh nở Biến chứng Nhiễm trùng viêm gan C kéo dài nhiều năm và có thể gây biến chứng trầm trọng như: - Xơ gan (cirhosis): Sau 20-30 năm bị nhiễm trùng, có thể bị xơ gan. Gan xơ cứng không còn làm công việc của mô gan lành mạnh, hậu quả là suy gan và hoại gan. Gan lành mạnh và gan bị xơ: - Ung thư gan: Một số nhỏ bệnh nhân bị ung thư. - Bại gan: Nhiễm trùng viêm gan C có thể dẫn đến bại gan, gan không hoạt động nữa. Trước khi đi khám bệnh, bạn nên sửa soạn kỹ lưỡng. Tìm bác sĩ: Nếu nghi ngở là mình bị nhiễm trùng viêm gan C, nên đi khám bệnh với bác sĩ gia đình hoặc một bác sĩ toàn khoa. Sau khi chẩn bệnh, bác sĩ có thể giới thiệu bạn đến khám bệnh với chuyên viên. Nhóm chuyên viên có thể bao gồm: - bác sĩ chuyên khoa về nhiễm trùng (infectious diseases) - bác sĩ chuyên khoa vể bệnh gan (hepatologist) Sửa soạn những thứ sau đây: Buổi khám bệnh có thể ngắn và có thể nhiều chi tiết cần ghi nhớ, do đó, bạn nên: 1) Hỏi kỹ lưỡng về cách sửa soạn cho buổi khám bệnh khi lấy hẹn như có cần nhịn ăn hay không, nếu cần thì nhịn ăn bao nhiêu lâu trước khi đến khám bệnh 2) Viết chi tiết các triệu chứng mà bạn gặp 3) Viết chi tiết về những dữ kiện cá nhân kể cả cân nặng, sự thay đổi về trọng lượng cơ thể nếu có, những thay đổi trong đời sống ... 4) Ghi chép danh sách số thuốc men và lượng thuốc đang dùng kể cả sinh tố, dược thảo và chất dinh dưỡng phụ 5) Mời người thân đi cùng để họ giúp đỡ bạn ghi nhận những chi tiết trong buổi khám bệnh Những điều nên hỏi bác sĩ: Bạn nên ghi những điều muốn hỏi lên giấy, và ít nhất là những câu hỏi sau: 1) Lượng siêu vi khuẩn viêm gan C trong cơ thể tôi là bao nhiêu? 2) siêu vi khuẩn viêm gan C đã hủy hoại gan chưa? 3) Tôi có cần chữa trị việc nhiễm trùng này không? 4) Có những cách chữa trị nào? Lợi ích của việc chữa trị là những gì? Rủi ro của việc chữa trị là những gì? 5) Theo ý bác sĩ thì cách chữa trị nào thích hợp nhất? 6) Tôi bị những chứng bệnh khác, việc này có ảnh huỏng đến việc chữa trị nhiễm trùng viêm gan C hay không? 7) Thân nhân tôi có cần thử nghiệm nhiễm trùng viêm gan C không? 8) Tôi có thể gây bệnh cho người khác không? 9) Tôi cần làm gì để bảo vệ những người chung quanh? 10) Tôi có cần gặp bác sĩ chuyên khoa không? Chi phí là bao nhiêu? Bảo hiểm của tôi có trả chi phí này không? 11) Có tài liệu nào để tôi đọc thêm không? Khi nào thì tôi cần đi khám bệnh nữa? Nên lập lại câu hỏi hoặc hỏi bác sĩ nếu bạn chưa hiểu rõ điều gì. Thử nghiệm & Chẩn đoán Truy tìm viêm gan C trong những người khỏe mạnh: Những người có nguy cơ bị nhiễm trùng cần đi khám bệnh để được thử nghiệm và chữa trị kịp thời nếu bị nhiễm trùng. Đây là điều cần thiết vì siêu vi khuẩn viêm gan C gây hư hoại gan trước khi tạo ra triệu chứng. Những người nên hỏi ý kiến bác sĩ về việc truy tìm dấu vết của nhiễm trùng viêm gan C: -Chích ma túy. -Dấu vết của suy gan khi thử máu mà không rõ nguyên nhân. -Hài nhi từ người mẹ bị nhiễm trùng viêm gan C. -Chuyên viên chăm sóc sức khỏe bị kim đâm hoặc trực tiếp sờ mó máu bị nhiễm trùng. -Người bị hemophilia và được truyền chất đông máu trước năm 1987. -Người lọc máu vì bại thận lâu năm. -Người được truyền máu trước năm 1992. -Người giao hợp với bạn tình bị nhiễm trùng. Thử máu để chẩn bệnh viêm gan C: Việc thử máu giúp ta nhận ra: -Bệnh nhân có bị nhiễm trùng không. -Đo lượng siêu vi khuẩn viêm gan C trong máu (viral load). -Tìm hiểu chủng loại của siêu vi khuẩn (genotyping) để liệu định cách chữa trị thích hợp. Trích mô để liệu định mức hư hoại của gan: bác sĩ có thể trích mô (làm sinh thiết) để lấy một mảnh gan đem thử nghiệm xem gan có bị hư hoại không, và hư hoại đến mức độ nào để tìm cách chữa trị thích hợp. Chữa trị và dược phẩm Việc chữa trị nhiễm trùng viêm gan C không cần thiết cho tất cả mọi người bị nhiễm trùng. Nếu bạn chỉ có dấu hiệu của suy gan nhẹ, có thể sẽ không cần chữa trị vì việc hư gan trong tương lai ít khi xảy ra. Bác sĩ có thể khám bệnh định kỳ để theo dõi sự diễn tiến của bệnh trạng. Dược phẩm: Ribavirin và interferon alpha được dùng để diệt siêu vi khuẩn. Các dược phẩm này được dùng trong nhiều tuần lễ. Sau khi chấm dứt, bác sĩ thử máu tìm dấu vết siêu vi khuẩn viêm gan C. Nếu siêu vi khuẩn viêm gan C vẫn còn trong máu, bác sĩ có thể chữa trị lần thứ nhì. Các dược phẩm này gây trầm cảm, mệt mỏi, sốt và nhức đầu. Đôi khi bác sĩ cần ngưng chữa trị vì bệnh nhân không chịu nổi các phản ứng phụ kể trên. Ghép gan Khi gan bị hư hoại trầm trọng, chỉ ghép gan mới cứu được bệnh nhân. Trong cuộc giải phẫu, bác sĩ cắt bỏ gan cũ và ghép gan mới. Gan mới đến từ những người tặng vừa qua đời, tuy nhiên một số nhỏ (một thùy gan) đến từ người tặng còn sống. Khi nhiễm trùng siêu vi khuẩn viêm gan C, ghép gan không chữa dứt nhiễm trùng, bác sĩ sẽ cần tiếp tục chữa trị bằng dược phẩm vì nhiễm trùng viêm gan C vẫn tiếp diễn. Nên chủng ngừa các lọai nhiễm trùng siêu vi khuẩn viêm gan A và viêm gan B vì các loại nhiễm trùng này cũng sẽ gây suy gan và khiến việc chữa trị nhiễm viêm gan C phức tạp, khó khăn hơn. Cách sinh hoạt và chữa trị dân gian: Bạn sẽ cần thay đổi cách sống để duy trì sức khỏe và bảo vệ những người chung quanh: -Ngừng uống rượu: Rượu gia tăng suy gan. -Tránh các loại thuốc, dược thảo, chất dinh dưỡng phụ ảnh hưởng đến gan: Nói cho bác sĩ biết bạn đang dùng những thứ gì. -Duy trì sức khỏe: Ăn uống đầy đủ chất bổ dưỡng, trái cây, rau xanh, vận động thể xác thường xuyên, ngủ đủ giấc và nghỉ ngơi đầy đủ. -Giúp bảo vệ những người khác bằng cách băng kín các vết thương, vết lở, không dùng chung dao cạo hay bàn chải răng, không hiến máu, hiến tủy hay tinh dịch, và quan trọng nhất là nói cho các chuyên viên chăm sóc sức khỏe biết là bạn bị nhiễm trùng viêm gan C. Y Học Hoán Đổi Không có loại chữa trị Phụ Thuộc (Complementary) hay Hoán Đổi (Alternative) nào được chứng minh là hiệu quả trong việc ngăn ngừa cũng như chữa trị nhiễm trùng viêm gan C. Một loại dược thảo, milk thistle, được nhiều người quảng cáo là việc sử dụng giảm vàng da và "mát gan". Người bệnh dùng loại dược thảo này dưới dạng thuốc viên con nhộng, dung dịch, hoặc trà. Một vài cuộc thử nghiệm giới hạn về tác dụng của milk thistle cho kết quả lẫn lộn nên chưa có tài liệu nào kết luận là loại dược thảo này hữu dụng. Nếu bạn muốn thử milk thistle, nên thảo luận với bác sĩ. Phòng ngừa: Để tránh nhiễm trùng viêm gan C, bạn nên: Ngưng ngay việc dùng ma túy. Nếu không thể cai, đừng dùng chung kim chích hay các vật dụng dùng ma túy với người khác. Cẩn thận về việc xâm mình, xỏ kim đeo vòng ... Cần biết là nơi xâm có dùng kim sạch hay không. Khi giao hợp cần dùng "áo mưa". *Tài liệu của CDC, Mayo Clinic
|
|
|
Post by NHAKHOA on Dec 21, 2010 15:29:43 GMT -5
Gan Nhiễm Mỡ
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức Gan là cơ quan nội tạng lớn nhất trong cơ thể với trọng lượng khoảng 1.4 kg. Nằm ở phía trên bên phải của bụng, ngay dưới xương lồng ngực, gan có hai thùy. Thùy phải lớn và gồm có ba mảnh ghép với nhau. Thùy trái nhỏ hơn, nằm lên phần dạ dày tiếp cận với thực quản. Về cấu tạo, gan có khoảng từ 50,000 tới 100,000 tiểu thùy nhỏ với một tĩnh mạch ở giữa. Từ tĩnh mạch tỏa ra cả trăm tế bào gan đan xen với hệ thống ống dẫn mật và mạch máu nhỏ xíu. Gan có mầu đỏ tươi tương tự như gan súc vật bày bán ở cửa hàng thịt. Với khoảng 300 tỷ tế bào, gan có khả năng tự tái tạo và duy trì được chức năng dù chẳng may vì một lý do nào đó đã mất đi 90% khối lượng. Nhưng nếu cả trăm phần trăm tế bào gan bị hư hao vì bệnh tật thì con người chỉ sống nếu được ghép một miếng gan. Gan tiếp nhận máu qua tĩnh mạch cửa và động mạch gan. Mỗi phút các mạch máu này chuyển qua gan khoảng 1,5 lít máu. Máu trong động mạch gan chứa nhiều oxy còn máu ở tĩnh mạch cửa chuyển tải các chất phế thải của sự tiêu hóa. Gan được ví như một nhà máy chế biến hóa học cực kỳ tinh vi với cả trăm nhiệm vụ quan trọng khác nhau. 1.Gan là kho tiếp nhận đường glucose hấp thụ từ ruột non rồi tích trữ dưới dạng glycogen. Sau mỗi bữa ăn, khi đường huyết lên cao thì insulin từ tụy tạng sẽ thúc đẩy gan biến hóa glucose thành glycogen. Vài giờ sau đó, khi đường huyết xuống thấp, gan lại chuyển glycogen ra glucose, đưa vào máu và cung cấp cho các bộ phận có nhu cầu. 2.Ngoài vai trò kể trên, gan còn biến hóa đường và chất béo thành chất đạm và cũng làm chất đạm và chất béo biến thành glucose. 3.Gan chế tạo khoảng 0.5-0.9 lít mật mỗi ngày. Mật là chất lỏng mầu vàng-xanh, vị đắng với thành phần cấu tạo quan trọng nhất là muối mật, cần thiết cho sự tiêu hóa chất béo trong thức ăn. 4- Gan loại bỏ các chất độc hại như rượu, một vài loại dược phẩm như acetaminophen. 5.Gan tổng hợp ure, một phế chất trong sự chuyển hóa chất đạm và loại ra ngoài qua thận. 6.Gan hủy hoại các hồng huyết cầu hư hao, già nua cũng như tiêu diệt các vi khuẩn lẫn trong thực phẩm ở ruột. 7.Gan tích trữ các sinh tố A, B, D,E và K 8- Gao tạo ra các chất đạm trong máu như albumin, globulin và yếu tố đông máu. Gan Nhiễm Mỡ Mới nghe gan nhiễm mỡ, nhiều bà con cũng giựt mình e ngại. E ngại vì gan có mỡ thì làm sao mà sống được. Thực tế ra thì trong gan cũng như các bộ phận khác của cơ thể, chỗ nào cũng có mỡ. Mỡ là thành phần cấu tạo của các tế bào. Chỉ khi nào mỡ trong gan quá 5% trọng lượng gan và lấn át, chiếm chỗ của các tế bào gan lành mạnh. thì mới có vấn đề. Khi đó thì gan sẽ có mầu vàng béo, lớn hơn và nặng hơn bình thường. Cắt một lát mỏng ở gan không bệnh rồi quan sát qua kính hiển vi, ta thấy máu tràn ngập khoảng trống giữa các tế bào gan. Thành tế bào gan sẽ lấy đi các chất độc hại, vi khuẩn, chất béo khiến cho máu trở nên sạch sẽ. Do đó gan giữ vai trò của một cái lọc. Nếu bây giờ trong tế bào gan và khoảng trống lại đầy những chất béo thì việc lọc và các chức năng khác của gan sẽ suy giảm đưa tới hậu quả xấu cho cơ thể. Các chất béo này đa số thuộc nhóm triglycerit. Có nhiều loại gan nhiễm mỡ: 1- Nhiễm mỡ không do rượu Bệnh rất phổ biến tại các quốc gia phát triển và chiếm 24% các bệnh về gan tại Hoa Kỳ. Bệnh có thể chỉ là tăng chất mỡ trong gan, không gây ra triệu chứng gì hoặc vừa tăng mỡ vừa bị viêm tế bào gan rồi đưa tới xơ gan. Nguyên nhân chưa được biết rõ nhưng sau đây là một số rủi ro gây bệnh: - Hội chứng chuyển hóa với chẩn đoán tiểu đường loại 2, mập phì, cao cholesterol/ triglycerid trong máu. Bệnh thường thấy ở phụ nữ từ 40-60 tuổi nhưng cũng có thể xảy ra ở mọi giới mọi tuổi. Ngoài ra, gan nhiễm mỡ cũng xảy ra vì các rủi ro khác như: - Suy dinh dưỡng, thiếu chất đạm .- Một số dược phẩm như amiodarone, tamoxifen, methotrexate, valproic acid, tetracycline, thuốc chống virus zidovudine - Phẫu thuật dạ dày để giảm cân - Độc chất, thuốc diệt sâu bọ. - Bệnh Wilson trong đó khoáng chất đồng tích tụ trong gan. Bệnh âm thầm diễn tiến, đôi khi không có dấu hiệu rõ rệt. Một số than phiền đau ngầm ngầm nơi bụng trên, mệt mỏi, kém ăn. Khám bệnh, bác sĩ thấy gan hơi to. Xét nghiệm máu thấy men gan lên cao và sinh thiết gan cho hay trong tế bào gan có những túi chất béo nhỏ li ti. Điều trị căn bản nhắm vào việc loại bỏ các rủi ro gây bệnh cũng như duy trì mức độ đường huyết và cholesterol bình thường, giảm cân, không dùng các chất độc hại 2.Gan nhiễm mỡ do rượu Mỗi ngày tiêu thụ trên 60 g rượu trong thời gian 10 năm là đủ gây ra bệnh gan nhiễm mỡ. Phụ nữ dễ bị bệnh này hơn nam giới dù chỉ dùng 1/3 số lượng rượu kể trên. Lý do là quý bà ít có loại men gan bảo vệ với sự hấp thụ chất rượu ở dạ dày. Bệnh cũng thường xảy ra cho người trong cùng huyết tộc, nhiễm viêm gam C, tiêu thụ nhiều chất béo không bão hòa động vật hoặc có quá nhiều chất sắt tích tụ ở gan. Sau khi tiêu thụ, rượu được dạ dày và ruột non hấp thụ rồi hầu hết được oxy hóa, tạo ra các chất có khả năng cung cấp năng lượng cho cơ thể. Vì lẽ đó, các acid béo từ thức ăn không được dùng đến khiến cho triglycerid tích tụ trong gan và tăng chất béo trong máu. Dấu hiệu bệnh không có gì đặc biệt: đau âm ỉ phía gan, mệt mỏi, tâm trí rối loạn, kém ăn, vàng da, gan to. Trường hợp trầm trọng sẽ có viêm tế bào gan, xơ hóa và xơ cứng gan. Bệnh có thể chẩn đoán với gan lớn qua siêu âm, xét nghiệm tế bào gan thấy nhiễm mỡ trong tế bào gan. Không có thuốc đặc trị cho bệnh gan nhiễm mỡ vì tiêu thụ quá nhiều rượu. Chỉ cần ngưng rượu khoảng dăm tuần lễ là tình trạng nhiễm mỡ được cải thiện liền. Sau đó, dinh dưỡng đầy đủ đúng cách, dùng thêm một số vitamin như các sinh tố nhóm B, khoáng chất vì người nghiện rượu thường thiếu các chất này. Bác sĩ Nguyễn Ý Đức M.D. Texas- Hoa kỳ ************************* Thuyết trình y tế về bệnh viêm ganBác sĩ Kelvin Mai FOUNTAIN VALLEY (California) – Một buổi thuyết trình về viêm gan của bác sĩ Kelvin Mai, chuyên khoa nội thương trung tâm y khoa Bristol Park tại bệnh viện Orange Coast Memorial Medical Center đã diễn ra ở phòng họp nhà thương ở Fountain Valley vào trưa ngày thứ Bảy, 8-8-2009. Bác sĩ đã thuyết trình, và bệnh viện cung cấp các tài liệu y khoa cần thiết đến hàng trăm người Việt quan tâm có mặt; cũng như trả lời trực tiếp các câu hỏi của họ về bệnh viêm gan, yếu tố nguy hiểm, nguyên nhân, biến chứng, dấu hiệu và triệu chứng, cách phòng ngừa và chữa trị… Theo các nguồn tài liệu (mayoclinic.com, nlm.nih.gov/medlineplus, yourliver.org) do bác sĩ Kelvin Mai đưa ra thì, muốn hiểu về bệnh viêm gan, cần biết về chức năng lá gan. Không thể sống không có lá gan. Lá gan là một trong các cơ quan lớn nhất và đảm nhiệm nhiều vai trò nhất trong cơ thể, phụ trách nhiều phận sự 24/7 như: lọc máu, lọc thải chất rượu, chất bài tiết, ma túy, thuốc trị bệnh, và các loại chất độc khác, sản xuất các loại chất đạm căn bản thiết yếu giúp cho máu đông, biến đổi thức ăn thành chất dinh dưỡng, sản xuất ra mật, biến đổi chất béo, dự trữ chất sắt, sinh tố, chất béo và chất đường để dùng sau, giúp cho việc hấp thu bằng cách giúp trong việc tiêu hóa... Bệnh viêm gan là do lá gan bị sưng. Có thể có mà cũng có khi không có triệu chứng. Bệnh có thể ngăn chặn khả năng làm việc của gan. Một số bệnh viêm gan có thể làm nguy hiểm đến tính mạng. Có sáu loại viêm gan: A,B,C,D,E, G; trong đó A,B,C thường xảy ra nhất. Lá gan bị hư hại vì nhiều lý do như sử dụng ma túy, uống rượu, gây ra bởi ký sinh trùng, vi trùng hoặc vi khuẩn, do tế bào miễn nhiễm tấn công vào lá gan, hoặc có trường hợp hiếm do uống thuốc Acetaminophen (Tylenol, v.v.) quá liều. Bệnh viêm gan A còn được gọi là bệnh viêm gan truyền nhiễm, rất dễ lây nhiễm, thường là trường hợp bệnh nhẹ, vi khuẩn không ở lại trong máu, gây ra bởi việc ăn uống thức ăn hay nước uống dơ, vi khuẩn lẫn trong phân, có thể lầm với bệnh cúm; bệnh nhân trở lại “bình thường” trong vòng 1-2 tháng. Bệnh viêm gan B còn gọi là bệnh viêm gan huyết thanh, vi khuẩn nằm trong máu, thời gian ủ dài, thường lây qua sinh hoạt tình dục hoặc chích thuốc hoặc truyền máu đã bị nhiễm vi khuẩn hoặc những loại dịch khác trong cơ thể. Bệnh có thể trở nên nghiêm trọng; dù nhiều bệnh nhân hoàn toàn bình phục, một số bệnh nhân bị viêm kinh niên, có thể đưa đến chứng suy gan, ung thư gan hoặc sơ gan (gan có thẹo). Bệnh viêm gan C là loại viêm gan nguy hiểm nhất trong các loại, triệu chứng có thể không phát triển trong hàng chục năm sau khi lá gan đã bị hư hại, có thể đưa đến chứng suy gan, ung thư gan hoặc sơ gan (gan có thẹo). Triệu chứng bệnh viêm gan gồm có: nước tiểu đậm màu, phân màu lợt hoặc có màu đất sét, chứng vàng da, mắt và da có màu vàng, biếng ăn, mệt mỏi chóng mặt, đau bụng hay bụng căng chướng, buồn nôn hoặc ói mửa, bị sốt nhẹ. Bác sĩ chẩn đoán bệnh viêm gan bằng cách lấy thông tin y tế và chi tiết về lối sống, khám tổng quát cũng có thể phát hiện triệu chứng bệnh viêm gan (tuy nhiều người mắc chứng viêm gan B hay C không có triệu chứng gì cả lúc mới bị nhiễm bệnh, triệu chứng chỉ phát triển sau này). Bác sĩ cũng có thể thử nghiệm sắc tố mật bilirubin, chất kháng sinh, chất kháng thể, chất xúc tác gan, hoặc siêu âm hay chụp hình CT gan, hoặc thử nghiệm sinh thiết gan. Về phương pháp điều trị bệnh viêm gan A, bệnh nhân nên hỏi bác sĩ xem nên ăn uống ra sao, dùng thuốc theo toa, kiêng cữ rượu, v.v.. Bệnh viêm gan B và C thì điều trị bằng thuốc dành cho tình trạng viêm gan kinh niên, theo chế độ ăn uống hợp vệ sinh, kiêng cữ rượu, v.v.. Các bệnh viêm gan có thể được phòng ngừa bằng cách chích thuốc ngừa bệnh viêm gan B và C; dùng condom bằng chất latex hay polyurethane; không dùng chung kim chích, nếu đi du lịch ngoại quốc; cần cẩn thận về trái cây, rau cải, thịt sống hoặc chưa nấu chín, hay nước đá, nước lã; đi khám bệnh ngay nếu nghĩ là bị nhiễm bệnh; luôn giữ gìn sạch sẽ; rửa tay thường xuyên thật sạch sau khi đi vệ sinh, trước khi ăn hoặc làm thức ăn, sau khi thay tã; không dùng chung khăn, muỗng nĩa, hay bàn chải đánh răng.... Bác sĩ Kelvin Mai cùng các bác sĩ gốc Việt trong tổ hợp y tế và bệnh viện cũng từng có các buổi tiếp xúc với cộng đồng Việt Nam trước đây như trong năm 2009 đã có dịp tham gia hội chợ y tế ở một nhà thờ… Riêng bệnh viện Orange Coast Memorial cũng đã từng tổ chức các buổi gặp gỡ giữa bác sĩ Việt với cộng đồng Việt như bác sĩ Nguyễn Minh Thành cũng trong năm 2009 trước đây và sắp tới còn có các bác sĩ Nguyễn Trọng và bác sĩ Christopher, cùng chuyên khoa giải phẫu xương và khớp xương sẽ nói về bệnh đau vai vào thứ Bảy, ngày 22-8-2009, từ 10 giờ sáng đến 12 giờ trưa, cũng tại bệnh viện Orange Coast Memorial Medical Center, số 9920 Talbert Ave, Fountain Valley, CA 92708, phòng họp A, điện thoại 714-378-7403; .
|
|
|
Post by NHAKHOA on Dec 21, 2010 15:33:41 GMT -5
Bệnh Viêm Gan B: Chữa Theo Tây - Trị Theo TaDược sĩ Nguyễn Ngọc Lan & BS Thú y Nguyễn Thượng Chánh(Xin xác minh là tác giả không phải là bác-sĩ y-khoa và cũng không phải là đông-y-sĩ. Bài viết nầy không có mục đích chỉ dẫn cách chữa trị bệnh viêm gan B, mà chỉ là một thông tin về khoa-học và giáo-dục mà thôi. Tất cả mọi thắc mắc, mọi nghi vấn liên quan đến việc chẩn đoán và chữa trị bệnh viêm gan B, xin quý độc giả tham khảo trực tiếp với bác-sĩ chuyên-khoa của chính mình. NNL & NTC)Ngày nay, bệnh viêm gan B (hépatite B) đã trở thành một tai ương thầm lặng của nhân loại. Tổ Chức Y Tế Thế Giới ước đoán có trên 350 triệu người đang bị nhiễm virus viêm gan B, trong đó khu vực Á Châu có vẻ trầm trọng hơn hết. Các giới chức năng y tế Việt Nam cho rằng có từ 10%-20% dân số Việt Nam (lối trên 12 triệu người) đã bị nhiễm bệnh viêm gan B. Mỗi năm số nạn nhân chết vì ung thư gan ác tính hepatocellular carcinoma không ngừng gia tăng thêm lên mãi. Là người Việt Nam sống ở hải ngoại, chúng ta có thể cũng cùng chung số phận trước bệnh viêm gan B như đồng bào sống ở bên nhà... Và có không ít người trong chúng ta đã bị nhiễm từ lâu mà không hề hay biết, và có thể đó cũng chính là...gia-tài của mẹ đã trao lại cho chúng ta vào lúc chúng ta chào đời (bị nhiễm từ người mẹ lúc mới sanh). Cũng may, từ năm 1982 thì thuốc chủng ngừa viêm gan B đã có thấy xuất hiện lần đầu tiên trên thị trường. Ngày nay tại các quốc gia Tây phương, trẻ em vừa mới sanh ra đều được chủng ngừa viêm gan B theo chương trình và điều kiện ấn định của giới y tế. In 2006, a total of 162 (84%) of 193 countries had introduced HepB vaccine into their national infant immunization schedules. Among the 193 countries, 81 (42%) reported using a schedule with a HepB vaccine birth dose (defined as a dose administered within 24 hours of birth). Worldwide, 27% of newborns received a HepB vaccine birth dose in 2006. In the 87 countries with =8% chronic HBV infection prevalence,[5] HepB vaccine birth dose coverage was 36%.(L.Dumolard PhD et al. Implementation of Newborn Hepatitis Vaccination Worldwide 2006) Vincent Ianelli, MD. The Hepatitis B vaccine for Newborns pediatrics.about.com/od/weeklyquestion/a/0408_hepb_vac.htmHepatitis Foundation International. Hepatitis vaccination. www.hepfi.org/living/liv_preventing.html Virus viêm gan B (HBV) lây nhiễm qua nước bọt, đường máu, kim chích, tinh dịch, v.v... Virus viêm gan B có sức lây nhiễm cao hơn cả virus VIH Sida. CHỮA THEO TÂY Giới y-khoa chính-thống thì khuyên những người mắc bệnh viêm gan mãn tính (hépatite chronique) cần phải được theo dõi định-kỳ bởi bác-sĩ chuyên-khoa, thí dụ như: -/ mức độ enzymes của gan AST và ALT: để kiểm tra chức năng của gan có bị tổn thương hay không (bằng cách lấy máu xem mức độ gia tăng của những enzymes nầy); -/ mức độ chất alpha feto protein: để biết có tình trạng ung thư gan hay không; -/ chỉ số HBV-DNA: để biết tình trạng sinh sản của virus; -/ những tests tìm sự hiện diện các kháng-nguyên (antigenes) thí dụ như HBsAg, HBcAg, HBeAg của siêu vi cùng các kháng-thể (anticorps) tương ứng trong người bệnh: để định được chính xác hơn về tình trạng của siêu vi phức tạp nầy… *Christine M.Kukka-HBV Project Manager-How to Interpret Hepatitis B-Antibody & Viral Tests: www.hbvadvocate.org/hepatitis/factsheets_pdf/Antibody%20-%20viral%20tests.pdf*Hepatitis B, Lab tests: www.labtestsonline.org/understanding/analytes/hepatitis_b/test.html-/ siêu âm bụng (échographie abdominale): để xem hình dạng của gan và các vùng phụ cận có bình thường hay không, hoặc thêm test về sinh thiết gan (biopsie hépatique) nếu có một sự nghi ngờ nào đó, v.v. Sau cùng, tùy theo mức độ biến chuyển của bệnh mà bác sĩ sẽ quyết định kê toa thuốc uống hay thuốc chích cho bệnh nhân. Trên thị trường, hiện nay có nhiều loại thuốc trị viêm gan B rất công hiệu nhưng rất đắt tiền. Tuy nhiên, phản ứng phụ cũng rất nhiều, và virus viêm gan B có thể lờn đối với một loại thuốc nào đó sau một thời gian trị liệu. Sau đây là những thuốc trị viêm gan B đã được áp-pru tại Hoa Kỳ và Canada: 1/ Thuốc uống giúp làm chậm lại sự sinh-sản (replication) của virus: - Lamivudine (Heptovir, Zeffix) - Adefovir (Hepsera) - Entecavir (Baraclude) - Telbivudine (Tyzeka, Sebivo) - Tenofovir (Viread) 2/ Thuốc chích giúp tăng cường hệ miễn-dịch để diệt virus: - Interferon Alpha (Intron-A, Roferon-A, Viraferon) -Pegylated Interferon (Pegasys, ViraferonPeg) +Tại Hoa Kỳ: Trị liệu viêm gan B bằng thuốc Tây tốn bao nhiêu tiền (theo Hepatitis B Foundation) (Dưới đây $$ chỉ là giá vốn mua vô của dược phòng) Approved HBV Antiviral and Interferon Therapy Comparison of Costs 2009* *Averages based on 2009 wholesale costs obtained from Drugstore.com, Target Pharmacy, CVS pharmacy, Walgreen’s pharmacy www.hepb.org/pdf/2009%20Drug%20Comparison.pdfDrug Name - Average Monthly Cost - Average Annual Cost Lamivudine 100mg - $448.72 - $4,304.58 Adefovir 10mg - $899.96 - $10,704.39 Entecavir 0.5mg - $811.49 - $9,577.80 Tenofovir 300mg - $730.37 - $8,661.89 Telbivudine 600mg - $740.22 - $8,663.22 Interferon (3x weekly injections) - $2,084.34 - $26,267.40 Pegylated Interferon - $2,543.01 - $33,059.08 (1 x weekly injections) TRỊ THEO TA Giới nhóm thuốc-thiên-nhiên chủ trương dùng dược thảo. Họ đã trưng ra nhiều bằng cớ khảo cứu về dược thảo trị viêm gan B, đồng thời họ cũng quả quyết với những kết quả rất khích lệ trong nhiều trường hợp viêm gan mãn tính như sau: -/ làm tái tạo lại mô gan bị xơ hóa; -/ giảm mức độ enzymes AST và ALT; -/ thậm chí làm lật ngược lại thế cờ trong trường hợp ung thư gan... Các khảo cứu về những sự kiện nầy thường được thực hiện tại Ấn Độ, Trung Quốc, Đại Hàn,Thái Lan, Brazil,Việt Nam, v.v… *Mahidol Univ, ThaiLand. Efficacy of Phyllanthus amarus for eradication of hepatitis virus in chronic carriers.J Med Assoc Thai 1991.Sept;74(9):381-5 www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/1791391*Univ of Madras India.Effect of Phyllanthus amarus on chronic carriers of hepatitis virus. Lancet 1988 Oct 1,2(8614):764-6 www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/2901611Nhưng cho đến bây giờ, thì đây cũng vẫn còn là một vấn đề đang trong vòng tranh cãi rất gay go giữa giới y-khoa chính-thống và giới nhóm thuốc-thiên-nhiên! Giới y-khoa chính-thống thì thường có khuynh hướng bác bỏ lối chữa trị ngoại khoa bằng dược thảo với nhiều lý do như: thiếu tài liệu khảo cứu có giá trị; thiếu thí nghiệm lâm sàng (clinical trial) hay thí nghiệm không hoàn chỉnh hay khó đo lường; vấn đề lang băm, v.v. Một ít khảo cứu về dược thảo của giới nầy đã đưa ra những kết quả trái ngược với kết quả của giới nhóm thuốc thiên-nhiên, thí dụ trường hợp khảo cứu về cây Diệp hạ châu đắng (cây chó đẻ thân xanh Phillanthus amarus) thực hiện tại Tân Tây Lan. *Milne A et al. Failure of New Zealand hepatitis B carriers to respond to Phyllanthus amarus. N Z Med J. 1994; 107:243 Và lẽ dĩ nhiên là giới nhóm thuốc-thiên-nhiên cũng không kém, họ tung ra những quảng cáo vô cùng mạnh mẽ… Nhưng hãy nhớ đây chỉ là những lời quảng cáo mà thôi! Trong dân chúng, trong số bạn bè quen biết thì vấn đề dùng dược thảo để chữa trị viêm gan B cũng thường được đề cập đến một cách rất ư là…lạc quan. Ai cũng đã từng nghe, từng biết có một người nào đó đã sử dụng dược thảo nầy, dược thảo kia nên nay đã hết bệnh viêm gan B? Đại khái là như vậy, và đó cũng chỉ toàn là tin đồn và tin đồn mà thôi! Sau đây là một số dược thảo trị viêm gan B thường được các thầy Đông Y Việt Nam cũng như các giới thuốc thiên-nhiên trên thế giới đề cập đến. **Hiệu quả thật sự ra sao thì tác giả hoàn toàn không được rõ Người viết mong ước được nghe ý-kiến, và tiếng chuông của các nhà chuyên môn cũng như của các bạn nào thật sự đã từng được chữa khỏi bệnh viêm gan B bằng dược thảo (có kết quả xét nghiệm của phòng thí nghiệm làm bằng) mà không có kèm theo thuốc Tây để mọi người cùng học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm với nhau. Phần lớn các thuốc liệt kê sau đây đều có thấy quảng cáo trên Internet, và có thể mua rất dễ dàng dù quý bạn đang ở bất cứ tận nơi nào đi nữa. Có thể dưới những tên khác hơn những tên Việt Nam mà chúng ta thường quen gọi. Dưới đây là những dược thảo và tùy theo loại, có thể làm mát gan, lợi mật, lợi tiểu, kháng viêm, kháng khuẩn, phục hồi chức năng gan, tẩy độc, tăng chức năng thải trừ của gan, làm bể sạn, tái tạo tế bào xơ gan, ức chế kháng-nguyên bề mặt (HBsAg) của siêu vi HVB trong bệnh viêm gan, trị hoàng đản, làm giảm cholestérol, v.v. 1/ Cúc Gai, Cỏ Gai, Kim Tảo Thảo (Silibum marianum, Milk thistle, Chardon marie): Có khả năng phục hồi tế bào gan. Tại Canada, sau vườn nhà của tác giả mọc đầy cây nầy vào mùa hè. Xem như một loại cỏ dại mà thôi. Âu Châu biết sử dụng loại dược thảo nầy từ 2000 năm nay. 2/ Cây Chó Đẻ Răng Cưa hay Diệp Hạ Châu (Phillanthus amarus, P. niruri, P. urinaria, Chanca Piedra hay Stone Breaker): Mọc nhiều ở nông thôn Việt Nam. Lá nhỏ, hoa và trái mọc dưới lá. Trị viêm gan B, kháng virus... Có hai loại: Diệp Hạ Châu đắng (P. amarus, P. niruri) có thân xanh, và Diệp Hạ Châu ngọt (P.urinaria) có thân đỏ. Đây là cây hằng niên, cao 60-70cm, nhánh ngắn. Rất nhiều khảo cứu tại Ấn Độ cho thấy P. amarus hữu hiệu hơn P. urinaria trong việc chữa trị bệnh viêm gan B. 3/ Nhân Trần (Artemisia capillaris Thunb, Yin chen, In chin koto, Kawara yomogi, Kyunchinho, Rumput Roman, Yin chen hao, Shih yin chen, Inchen, Armoise capillaire, Capillary wormwood) 4/ Rau Ngò Om, ở ngoài Bắc gọi là Rau Ngổ (Limnophila aromatica, rice paddy herb): Đây là rau để bỏ vô canh chua cho thơm. Được nghiên cứu nhiều tại các đại học Thái Lan. Rau Ngò Om chứa nhiều chất chống oxy hóa antioxidants. 5/ Bồ Bồ, Nhân Trần đực (Adenosma Indianum) 6/ Hoàng Cầm (Scutellaria baicalensis, Baikal, Skullcap root, Chinese scullcap, Ou gon, Wogon, Huang Quin, Hwanggun, Yellow root) 7/ Hoàng Liên, Huang Lian (Coptis chinensis Franch, Goldthread, Cankerroot, Mouth root) 8/ Hoàng Ba, Hoàn Nhiệt, Huangbai (Cortex pheblodendri amurensi) 9/ Đan Sâm, Dan Shen (Salvia miltiorrhiza, Salvia yunnannensis, Salvia bowleyana, Ch’ih shen, Huang ken, Red rooted sage, Salvia root, Shu Wei Ts’ao, Tsu tan ken, Pin ma Ts’ao) 10/ Đại Hoàng (Rheum palmatum Baill, Chinese rhubard, Himalayan rhubarb, Da huang, Rhei radix, Medicinal rhubarb) 11/ Bồ Công Anh (Traraxacum densleonis, Dent de lion, pissenlit, dandelion): Một loại cỏ dại hoa vàng rất phổ biến khắp nơi tại Canada vào mùa xuân và mùa hè. 12/ Boldo (Peumus boldus, Boldine, Boldo folium, Boldoak boldea) 13/ Dây Chiều Không Lông (Tetracera loureiri) 14/ Dành Dành, Chi tử, Thủy Hoàng Chi, Mạc Lăn Hương (Gardenia jasminoides Ellis) 15/ Ạt Ti Sô (Cynara scolymus L., Artichoke) 16/ Cây Nan Hai (Urtica dioica, Urtica urens, Stinging Nettle Root) 17/ Black Seed (Nigella sativa) 18/ Cà gai leo, Cà gai dây, Gai cườm, Cà lù (Solanum hainanensis Hance) 19/ Cây Lu lu đực, Thù lù đực, Long quỳ, Khổ quỳ, Thiên gia tử, Black NightShade (Solanum nigrum) 20/ Móng lưng rồng, Cải tử hoàn thảo (Selaginella tamariscina Spring) 21/ Tiểu Sài ho thang – BT, Sho saiko to (tên Nhật), Xiao Chai Hu Tang (tên Trung Quốc). Đây là tên một thang thuốc Bắc gồm có các loại dược thảo sau đây: Sài Hồ, Ban Hạ, Sinh Khương, Hoàng Cầm, Đại Táo, Nhân Sâm, Cam Thảo. 22/ Quả gất (Mordica cochinchinensis Spreng) +Tại Việt Nam: Tình hình dùng thuốc Nam để trị bệnh viêm gan B Thuốc Nam có chữa khỏi bệnh viêm gan B? Thứ sáu, 3/9/2010 Sức khỏe-Đời sống.Hòa Bình Online www.baohoabinh.com.vn/219/49540/Thuoc_Nam_co_chua_khoi_benh_viem_gan_B.htmTheo TS Trần Ngọc Ánh, Phó trưởng khoa Nội Đại học Y Hà Nội cho biết: “Theo những nghiên cứu điều tra mới nhất thì hiện nay, tỷ lệ dịch tễ nhiễm virut HBV ở nước ta rất cao, khoảng trên 8% dân số, thậm chí còn cao hơn và được xếp vào nhóm các quốc gia có tỷ lệ viêm gan B cao nhất thế giới. Trong số đó có tới 40% người bệnh đã bị biến chứng như viêm gan, xơ gan, ung thư gan... Ngày càng nhiều người bệnh được phát hiện, nhưng thường đến viện khi đã có biến chứng nguy hiểm... Khi viêm gan B đã có biến chứng thì điều trị rất khó khăn, thời gian theo dõi và điều trị bệnh ít nhất là 1 năm, chi phí tốn kém (khoảng 100 triệu đồng) nhưng hiệu quả điều trị lại không cao, đặc biệt với những người đã xơ gan nặng, ung thư gan…. “Các biện pháp điều trị hiện nay chủ yếu là làm giảm bớt số lượng virut có trong máu của bệnh nhân, từ đó hạn chế các biến chứng nguy hiểm xơ gan, ung thư gan ảnh hưởng đến tính mạng của bệnh nhân. Có rất nhiều loại thuốc điều trị bệnh (dạng tiêm và uống). Tuy nhiên, mọi chỉ định dùng thuốc cho bệnh nhân phải được bác sĩ đưa ra, vì thế bệnh nhân cần được khám và theo dõi định kỳ. Chữa trị viêm gan B là quá trình rất khó khăn, đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ lâu dài giữa bệnh nhân và thầy thuốc. Cho đến nay, chưa có kết quả nghiên cứu nào công bố về hiệu quả của thuốc Nam đối với bệnh viêm gan B.” KẾT LUẬN Không ai chối cãi là kho tàng dược thảo của con người thật vô cùng phong phú, và cũng chính thiên nhiên đã nuôi dưỡng nhân loại cho đến ngày hôm nay! Đối với tầng lớp bà con thuộc thế hệ thứ nhất sống tại ngoại quốc, không ít người vẫn còn mang theo họ nét văn hóa cũ trong vấn đề trị liệu, đó là việc phải dùng thuốc Nam. Đây cũng chính là một trở ngại ảnh hưởng không ít trong việc điều trị viêm gan B tại hải ngoại... Và vấn đề nầy còn trầm trọng hơn đối với người Việt Nam đang sống tại quê nhà! Tram T.Tran, MD-Medical Director Liver Transplantation. Cedar-Sinai Medical Center. Understanding cultural barriers in hepatitis B virus infection. www.ccjm.org/content/76/Suppl_3/S10.fullTuy vậy, thiên nhiên không hẳn là hoàn toàn vô hại! “ Nguyễn thượng Chánh & Nguyễn ngọc Lan - Phải chăng thiên nhiên là hoàn toàn vô hại” www.yduocngaynay.com/2-2NgTChanh_Herbe_Nature.htmMột số dược thảo có thể gây độc, làm hư gan hoặc hại thận nếu được sử dụng lâu dài và không đúng cách. Ngoài ra, một số dược thảo cũng có thể tương tác (interaction) với nhau, hoặc với các loại thuốc Tây, và gây ra những phản ứng bất lợi rất nguy hiểm cho sức khỏe, v.v. Gần đây có nhiều khảo cứu (Nhật, Phần Lan,Ý, Hy lạp…) cho biết: hình như ung thư gan Hepatocellular carcinoma (HCC) ít thấy xuất hiện ở những người thường xuyên tiêu thụ cà-phê (không hơn 4 tách) hơn những người không tiêu thụ! Tuy nhiên, tác giả của khảo cứu trên không hứa hẹn rằng cà-phê là một giải pháp để ngừa cancer gan! Ông ta lại còn nói rằng vấn đề nầy cần nên được bàn cãi rộng rãi thêm hơn nữa và người bị bệnh gan không nên uống cà-phê (?). Nói kiểu nầy thì có vẻ như nói theo kiểu…huề vốn quá trời quá đất! Và người ta lại cũng có quyền tự hỏi rằng: phải chăng các khảo cứu nầy đã được kỹ nghệ cà-phê tài trợ ở phía sau? Study: coffee may prevent liver cancer www.foxnews.com/story/0,2933,291975,00.html. The studies were reviewed by researchers including Francesca Bravi, ScD of the Istituto di Ricerche Farmacologiche "Mario Negri" in Milan, Italy. Together, the studies included 2,260 people with liver cancer and nearly 240,000 people without liver cancer. Participants lived in Greece, Italy, or Japan. Participants reported their coffee-drinking habits. The data show that coffee drinkers were 41percent less likely to have been diagnosed with liver cancer than people who don't drink coffee. But Bravi's team doesn't promise that drinking coffee will prevent liver cancer. They note that people with various digestive and liver diseases might choose not to drink coffee for reasons that aren't reflected in the data. Tóm lại, với bài viết ngắn ngủi nầy, tác giả ước mong chia sẻ được với quý bạn một vài thông tin về bệnh viêm gan B cùng với những dược thảo liên hệ, đồng thời hy vọng nó cũng có thể đem đến cho quý bạn một vài tia hy vọng nào đó trong cuộc sống ngày hôm nay vậy./. Tham khảo: -/ Shivarkumar Chitluri & Geoffrey C Farrel. Herbal hepatotoxicity: An expanding but poorly defined problem. Journal of Gastro & Hepato (2000)15, 1093-1099 gidiv.ucsf.edu/course/things/pre-2005/chitturi.pdf-/ Viêm Gan B - Những điều quí vị cần biết. Hepatitis Australia www.hepatitisaustralia.com/resources/documents/HepatitisB_Vietnamese.pdf-/ The Vietnamese chapter of hepatitis B foundation. USA www.hepb.org/pdf/english_vietnamese_chapter.pdf-/ Bác sĩ Nguyễn Bích Liên, Viêm gan và Ung thư gan. Thoibao.online www.thoibao.com/index.php?option=com_content&view=article&id=1089:-viem-gan-va-ung-th-gan-&catid=28:khoa-hc&Itemid=45-/ Rf Hepatitis B Foundation USA. Approved drugs for adults www.hepb.org/patients/hepatitis_b_treatment.htmwww.hepb.org/patients/living_with_hepatitis_b.htm-/ Bác sĩ Quách Tuấn Vinh. Câu chuyện về cây Diệp Hạ Châu, Ykhoanet www.ykhoanet.com/yhoccotruyen/baiviet/29_282.htm-/ Rf Dr Tai nin Chau,United Christian Hospital Hongkong.Drug-induced liver injury: an update, Medical Bulletin vol 13, no 3,march 2008 www.fmshk.org/database/articles/03mb5_2.pdfMontreal, Dec 16, 2010 DƯỢC SĨ NGUYỄN NGỌC LAN & BS THÚ Y NGUYỄN THƯỢNG C
|
|
|
Post by NHAKHOA on Apr 13, 2013 17:19:29 GMT -5
LÁ GAN CỦA BẠNGần đây, câu chuyện rắc rối trong chương trình ghép gan ở bệnh viện UCI được đưa lên mặt báo. Dân quận Cam cũng được nghe nhiều câu chuyện ghép gan của những nhân vật nổi tiếng. Nhưng quan trọng hơn cả là chuyện người Việt chúng ta bị bệnh viêm gan và do đó bị những biến chứng của bệnh này rất nhiều. Thậm chí con số người Việt chết vì bệnh gan không hiếm. Do đó, hôm nay tôi xin nói chuyện về lá gan hầu chúng ta có được một số hiểu biết về cơ quan rất quan trọng, nếu không nói là quan trọng nhất, giúp cho chúng ta có được một đời sống tốt đẹp ngày qua ngày. Lá gan nằm phía dưới lồng ngực bên phải của cơ thể, nặng từ 3 tới 4 pounds, lớn cỡ trái banh football, có hình nón, phía ngoài láng bóng. Lá gan có mầu nâu đỏ vì nó chứa cỡ 1 lít máu. Lá gan có khả năng thực hiện khoảng 500 hoạt động tối cần thiết cho cơ thể. Nếu không có lá gan, chúng ta sẽ không hấp thụ được thức ăn, loại bỏ những chất độc khỏi cơ thể, và không thể sống được. Lá gan rất là dẻo dai và chịu dựng. Nó có thể vẫn còn làm việc tốt được khi bị mất đi tới 90 % cấu tạo của nó. Sau khi bị cắt đi một phần lớn, gan sẽ tự mọc lại được trong vòng vài tuần. Nhưng gan cũng không phải là không thể bị hủy hoại. Những chất độc như thuốc men, rượu, và những loại siêu vi như viêm gan B và C... có thể gây ra tai hại vĩnh viễn cho gan. Khi người ta bị xơ gan, những tế bào của gan bị thay thế bằng những mô sẹo và lá gan không thể tự chữa được, sẽ dần mất khả năng hoạt động và cuối cùng là hư hoàn toàn. Bệnh xơ gan chỉ có thể chữa bằng cách thay gan mà thôi. Nhiệm vụ của gan Trước hết, gan có nhiệm vụ phân chia chất dinh dưỡng và chất thải. Nó còn có nhiệm vụ là chỗ tích trữ chất đường và tiết chất này ra khi bạn cần đến năng lượng. Nó cũng là một xưởng hóa học, chế tạo nhiều chất để thực hiện những hoạt động tối cần cho cơ thể. Một vài chất do gan chế tạo gồm có - Albumin, một chất đạm có nhiệm vụ trong việc hoán chuyển nước giữa máu và các mô tế bào. - Mật, một chất lỏng có nhiệm vụ mang chất thải đi và tiêu hóa chất mỡ trong ruột non. - Cholesterol., một chất cần thiết cho tất cả các tế bào trong cơ thể. - Những yếu tố làm đông máu, giúp ngưng chảy máu. - Globin, chất cần cho việc chuyên chở oxygen trong máu. - Những chất miễn nhiễm giúp chúng ta khỏi bị nhiễm trùng. Làm sao để bảo vệ lá gan? Uống nhiều rượu lâu năm là nguyên nhân chính gây ra bệnh gan. Rượu làm tế bào gan sưng lên và chứa nhiều chất mỡ khiến lá gan trở thành lá gan mỡ (fatty liver). Nếu chất mỡ này bị viêm, ta sẽ bị viêm gan vì rượu (alcoholic hepaitis) hay bị xơ gan. Gan bị xơ sẽ co lại bằng một phần nhỏ của lá gan bình thường. Bạn có thể theo những chỉ dẫn dưới đây để bảo vệ lá gan của mình: - Không uống rượu là tốt nhất, còn nếu uống thì chỉ nên uống vừa phải. Đàn bà uống quá 1 ly, đàn ông uống quá 2 ly mỗi ngày trong một thời gian dài có thể đưa đến chứng xơ gan. Những loại ma túy, nhất là cocaine, cũng có thể gây ra bệnh gan. - Không dùng rượu chung với các loại thuốc: dù cho bạn chỉ uống rượu vừa phải, nếu bạn uống thêm thuốc acetaminophen tức Tylenol, bạn cũng có thể làm hại lá gan. - Chích ngừa viêm gan B - Dùng thuốc cẩn thận. Chỉ dùng thuốc, dù là thuốc bán tự do, khi cần và chỉ dùng đúng liều chỉ dẫn. Nên hỏi ý kiến bác sĩ khi muốn dùng chung thuốc dược thảo hay dùng chung nhiều thứ thuốc. - Coi chừng những loại thuốc “dược thảo”: những thuốc dược thảo có thể nguy cho gan gồm có kava, comfrey, jin bu huan, trà kombucha, pennyroyal và skullcap. Không nên dùng quá liều các loại vitamin A, D. E và K. - Không tiếp cận với máu hay dịch cơ thể của người khác: siêu vi viêm gan có thể lây lan khi tình cờ bị kim đâm, qua sự tiếp cận khi lau chùi máu hay các dịch cơ thể, hoặc do xài chung kim chích. Dùng chung dao cạo râu hay bàn chải đánh răng, làm tình không an toàn... cũng có thể bị lây bệnh. - Cẩn thận khi dùng những loại bình xịt aerosol: phòng phải thoáng khí, phải đeo mặt nạ. Khi dùng thuốc xịt giết sâu bọ, thuốc chống nấm, sơn và các loại chất độc khác, cũng cần cẩn thận như trên. - Coi chừng những chất độc bám vào da: khi dùng thuốc giết sâu bọ hay những chất độc khác, cần đeo găng tay, mặc áo tay dài, đội mũ và đeo mặt nạ. - Không ăn những thức ăn có quá nhiều mỡ: Gan đã chế tạo ra đủ lượng cholesterol cần thiết cho cơ thể. Ăn uống điều độ, đủ chất bổ dưỡng, bạn sẽ giúp lá gan làm việc tốt. Nếu bạn vận động thân thể thường xuyên, bạn cũng giúp cho lá gan khỏe mạnh nữa. - Giữ không bị báo phì: dù bạn không uống rượu, nếu bạn bị béo phì, bạn cũng có thể bị chứng gan béo (fatty liver) gồm có gan chứa nhiều chất mỡ, viêm gan và xơ gan. - Gặp bác sĩ nếu bạn có những triệu chứng của bệnh gan: những triệu chứng này gồm có vàng da và mắt, bụng chướng lên hay rất đau, da ngứa kinh niên, nước tiểu vàng đậm hay phân trắng nhách, phân có máu hay đen kịt như hắc ín, mệt mỏi thường xuyên, buồn nôn và kém ăn. Trong tương lai Trong tương lai, bệnh gan có thể được chữa bằng “gene therapy”, nhiều thuốc chích ngừa và thuốc trị siêu vi để ngừa và chữa bệnh viêm gan C và những siêu vi có thể gây ra hư hoại gan vĩnh viễn. Những nhà khảo cứu cũng đang cố gắng chế tạo một lá gan nhân tạo để làm những chức năng của gan, giống như máy lọc thận cho người bị hư thận. Nhưng đó là chuyện tương lai. Ngay bây giờ, bạn có thể giúp gan không mắc bệnh bằng cách để ý không lạm dụng rượu, thuốc và những chất hóa học khác. ******************** Viêm gan siêu vi B và bệnh tiểu đường loại 2 với người Mỹ gốc ÁQuốc Hương/Viễn Đông Bác sĩ kiêm ký giả Prerna Mona Khanna và bác sĩ Ke-Qin Hu – ảnh: Quốc Hương/Viễn Đông HOLLYWOOD - “Hàng triệu người Mỹ gốc Á châu Thái Bình Dương bị ảnh hưởng bởi những căn bệnh có thể ngăn ngừa và chữa trị được.... Hai trong những nguy cơ đe dọa sức khoẻ lớn nhất của cộng đồng người Mỹ gốc Á châu Thái Bình Dương đó là bệnh viêm gan siêu vi B và bệnh tiểu đường loại 2” (The California Wellness Foundation). Được sự bảo trợ bởi The California Wellness Foundation (CalWellness.org) với sự phối hợp của công ty tổ chức sinh hoạt interTrend có các cô Eri Amano, Gwen Đỗ… phụ trách liên lạc cộng đồng người Mỹ gốc Á Châu, một tham luận đoàn có các chuyên gia gồm bác sĩ Ke-Qin Hu là giám đốc chương trình dịch vụ bệnh viêm gan, kiêm giáo sư phân khoa y học thuộc khoa hệ thống tiêu hóa tại trung tâm y tế đại học University of California, Irvine, và bác sĩ kiêm ký giả Prerna Mona Khanna cộng tác viên về y khoa, đài truyền hình Fox Chicago News, đã có buổi thuyết trình hỏi đáp trước các ký giả và đồng hương cộng đồng Mỹ Á Châu về bệnh viêm gan siêu vi B và bệnh tiểu đường loại 2, vào chiều ngày 5-8-2010 tại Elysian Park, lầu 3, khách sạn Renaissance ở Hollywood. Bác sĩ Ke-Qin Hu thuyết trình – ảnh: Quốc Hương/Viễn Đông Theo thuyết trình, các tài liệu được cung cấp tại chỗ và một số nguồn y khoa liên quan trên mạng: Viêm gan B là một thuật ngữ y khoa dùng để mô tả sự nhiễm trùng gan nghiêm trọng, do virus viêm gan B gây tổn hại cho gan, và nếu không được chữa trị thích hợp, bệnh này có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng về y khoa, bao gồm suy gan, ung thư gan, và đôi khi còn bị thiệt mạng. Viêm gan B có thể hoặc cấp tính xảy ra khi bị nhiễm virus viêm gan B lần đầu tiên, hoặc mãn tính xảy ra khi hệ miễn dịch không loại bỏ được virus này. Cơ nguy bị bệnh viêm gan B mãn tính nhiều hơn, đối với bất cứ người nào tiếp xúc với máu hoặc dịch cơ thể của một người bị nhiễm bệnh. Vì đa số bệnh nhân không có các dấu hiệu hoặc triệu chứng của bệnh viêm gan B, điều quan trọng là phải đi xét nghiệm nếu cảm thấy mình có nguy cơ. Các dấu hiệu và triệu chứng thường xuất hiện sau khi bị nhiễm bệnh 12 tuần và có thể bao gồm một số hoặc tất cả các điều sau đây: mắt và da có màu vàng (bệnh vàng da), chán ăn, đau bụng, buồn nôn và ói mửa, đau khớp xương, uể oải, nước tiểu có màu sẫm, yếu ớt. Yêu cầu bác sĩ gửi mẫu máu của quý vị đi thử sơ qua trong phòng thí nghiệm, tương tự như cách thử dùng để đo mức cholesterol. Nếu thử cho kết quả âm tính, nên chủng ngừa bệnh viêm gan B. Nếu có kết quả dương tính, hỏi bác sĩ xem có cần điều trị hay không. Điều rất quan trọng là phải theo dõi, và đi điều trị nếu bác sĩ đề nghị nên làm. Một số thuốc có thể làm giảm lượng virus trong máu và có thể giúp cho gan khỏe mạnh hơn. Một vài bước tích cực có thể làm để cải thiện sức khỏe: tiếp tục cuộc điều trị mà bác sĩ đã đề nghị; cho nha sĩ hoặc các bác sĩ khác biết là quý vị bị bệnh viêm gan B mãn tính; nhớ cho bác sĩ biết mọi thuốc men, sinh tố hoặc dược thảo đang dùng; ngủ cho đủ giấc, và tập thể dục đều đặn; có một quy chế ăn uống lành mạnh nhất có thể được. Bệnh tiểu đường loại 2 phát sinh do cơ thể mất khả năng sử dụng tốt insulin, một kích thích tố do tụy tạng làm ra có nhiệm vụ đưa đường vào tế bào và điều hòa lượng đường trong máu ở mức bình thường. Nếu tụy tạng không làm ra được insulin, hay cơ thể không sử dụng được insulin, đường sẽ không vào được bên trong tế bào, ở lại trong máu làm đường huyết tăng cao gây ra bệnh tiểu đường. Bệnh tiểu đường loại 2 với những người khác nhau có thể có các triệu chứng khác nhau. Một số người có vấn đề đi tiểu thường xuyên, chậm lành vết thương, hay đói và mệt mỏi, mờ mắt… Cũng có một số đặc tính cổ điển có thể trợ giúp để xác định bệnh tiểu đường, như là béo phì hoặc chỉ số khối cơ thể của họ thường phải bất thường, hay cũng có thể nhận thấy lịch sử gia đình hầu hết trong số họ có một hoặc nhiều thành viên gia đình với bệnh tiểu đường. Một số tính năng thường thấy là thừa cân và có thói xấu trong cuộc sống, như bất thường với các bữa ăn và không sống một cuộc sống với thói quen tập thể dục. Hoặc cũng có thể do một số nguồn gốc chủng tộc và gen. Bác sĩ căn cứ vào kết quả thử máu và các triệu chứng, để xác định chẩn đoán bệnh. Biến chứng còn có thể làm cho mù mắt, cưa chân, suy thận, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, cao huyết áp. Các biện pháp giúp kiểm soát bệnh như tìm hiểu căn bệnh tiểu đường, ăn uống có kế hoạch, vận động thân thể, dùng thuốc tiểu đường, hạ huyết áp…
|
|
|
Post by NHAKHOA on Apr 13, 2013 17:55:19 GMT -5
Thanh lọc gan bằng nước gạo lức rangNguyễn Đức Trọng Câu chuyện bắt đầu sau khóa sống chung Sức Khỏe và Tâm Linh với Đức Thầy và Thiền Ca tại Washington DC vào tháng 8, 1997.Thường lệ, sau khi thiền xong chúng tôi ngồi sinh hoạt và trao đổi kinh nghiệm tu học. Nhưng lần này chúng tôi có nhiều chuyện để nói hơn vì nhóm chúng tôi có 3 người tham dự Thiền Ca vừa trở về.
Đó là anh Cúc, anh Lâm và chị Trúc. Anh Lâm có đưa ra mẫu phân tích máu của anh và của anh Cúc do bà bác sĩ Renée Wellhouse chụp lại. Ai cũng ngạc nhiên khi thấy máu của anh Cúc quá sạch so với của anh Lâm. Và như anh Lâm cho biết chỉ có máu của anh Cúc và anh Du (bạn đạo Florida) là sạch nhất trong số những bạn đạo tham dự khóa sống chung tức là hồng huyết cầu rất tròn và huyết thanh rất trong. Tất cả đều quay ra phỏng vấn anh Cúc đã ăn uống và thanh lọc ra sao mà hay vậy, bởi vì hai anh cùng ăn chay như nhau, thanh lọc từ nước chanh qua đến Tsiao-He cùng thời gian như nhau, vậy mà máu của anh Cúc sạch bong, trong khi những hồng huyết cầu của anh Lâm thì méo mó và đầy rẫy những độc tố và ký sinh trùng (parasites). Ngoài ra, sắc mặt của anh Cúc và chị Cúc cũng tươi sáng hơn xưa nhiều. Anh Cúc bèn thanh minh là anh chẳng có làm gì khác hơn so với các bạn đạo trong vùng, từ ăn chay, thiền, thanh lọc, và tập thể dục. Có chăng là anh thêm phần uống nước gạo lức rang mà anh đã bắt chước từ bác Thoa (một bạn đạo). Trước khi đến với nhóm thiền tại Portland, Oregon hơn 10 năm về trước, bác Thoa đã bị mổ lấy mật túi mật vì mật bị sạn quá nhiều. Thêm nữa, bác sĩ cho biết một số lớn sạn đã tràn sang gan, mặc dù họ đã cố gắng gắp ra phần lớn nhưng vẫn còn trong gan khá nhiều. Bác sĩ cũng cho biết là gan bác đã bị chai, và y khoa hiện tại không có thuốc chữa bệnh gan nên bác sĩ cũng bó tay. Họ chỉ cho bác uống thuốc cầm chừng để thay thế lá mật đã cắt đi và thuốc bổ gan. Người của bác càng lúc càng sụt đi, da và mắt thì cứ vàng như nghệ. Cả nhà đều buồn! Bác tuyệt vọng. May có người nhà ở Việt Nam chỉ cho bác uống nước gạo lức rang với công dụng giúp gan giải trừ độc tố và giúp cơ thể tươi nhuận hơn. Bệnh của bác đã liệt vào hạng "Thầy chạy", thôi thì ai chỉ gì cũng thử, vả lại cũng chẳng hao tốn gì. Bác uống liền tù ti trong 3 năm dùng nước gạo lức thay thế thức uống cho trà, cà phê, nước ngọt...Như một phép lạ! Da và mắt của bác không còn vàng nữa, trong người không còn cảm giác uể oải và bực bội. Nước da của bác trở nên hồng hào và tươi sáng hơn bao giờ hết. Đi khám bác sĩ lại, từ bác sĩ cho đến y tá, ai nấy đều ngạc nhiên. Con người của bác như đã tái sinh. Họ xúm nhau đến hỏi xem bác đã uống gì mà hay vậy. Bác cũng chỉ nói nhờ bác gái chăm lo mà được như vậy. Thế là bác gái được thiên hạ xúm vào ca tụng. Và từ đó, nếu có dịp và nghĩ là có thể giúp đỡ được ai là bác đều kể lại câu chuyện này.Anh Cúc nghe bác kể liền áp dụng được hơn 3 tháng trước ngày đi dự khóa Sống Chung tại Washington DC, nên gan được thanh lọc rất sạch tốt. Mọi người nghe xong đều ngã ngửa vì không ngờ nước gạo lức rang lại có hiệu quả đến thế. Nửa tin, nửa ngờ, vì cũng mới như ngày nào bắt gặp pháp thiền Vô Vi. Giống như ra đường bảo thiên hạ bỏ ra $1.00, sáu tháng sau lấy lại $100.00. Thôi thì một liều ba bảy cũng liều, chúng tôi chạy ra chợ mua gạo lức về rang và dùng nồi slow cooker để nấu. Sáng, trưa, chiều, tối đều dùng nước gạo lức và càng uống, càng mê. Công thức: 1 muỗng canh gạo rang cho một lít nước. Cách rang: Nếu không có thì giờ rang bằng chảo trên bếp, bạn có thể dùng máy rang bắp (pop corn), rang 5 phút là được. Nhưng chỉ xài được cho gạo lức tròn. (nếu gạo lức dài, phải rang bằng chảo). Cách nấu: Cách nấu tiện và sạch nhất là dùng nồi slow cooker, để low level. Bạn có thể nấu từ sáng đến tối hoặc nấu qua đêm. Nếu bạn nấu nồi trên bếp thì nước gạo không trong (như nước cơm). Có lẽ, mấy anh chị cũng thắc mắc về kết quả của một số bạn đạo trong vùng Portland, sau 6 tháng uống thử: Bác Thoa: Dù đã 70 tuổi và không còn mật, trông bác vẫn trẻ, da mặt hồng hào và sáng láng. So với nhiều người vào tuổi 40, bác còn hơn xa, làm việc cả ngày không thấy mệt. Anh Cúc: Nhờ uống nước gạo lức, cộng thêm phương pháp thể dục của Đức Thầy đã chỉ dẫn, nước da anh bóng và hồng hơn trước. Anh đã ăn được rau sống, không còn bị đau bụng như nhiều năm qua, bớt nhức mỏi mỗi khi trời trở lạnh. Chỉ có một điều làm phiền cho anh là anh đã phải thay một loạt quần áo mới vì những quần áo cũ đã trở nên rộng và không còn vừa nữa. Đi shopping bây giờ là một cực hình cho anh.. Anh Lâm: Ngoài việc uống nước gạo rang, anh còn dùng thêm thuốc thanh lọc parasites của Awareness. Hiện tại, anh không còn đau khổ vì bịnh táo bón kinh niên từ nhiều năm qua. Cộng thêm nước da tươi mát, anh cho biết mồ hôi không còn hôi nữa. Miệng cũng không còn hôi (thiên hạ khỏi cần né mỗi khi đứng trước mặt anh nói chuyện). Có lẽ, nhờ thanh lọc, uống nước gạo lức rang, thiền và tập thể dục đều, anh không còn bị nhức vai, mỏi xương sống mỗi khi làm việc nặng. Thế là từ nay, anh không còn viện cớ đau lưng để trốn việc mỗi khi bị vợ nhờ cuốc đất làm vườn. Bích Loan: Mỗi khi mùa đông đến là mỗi lần sợ hãi, cô này những khi trời lạnh thì cổ và vai trở nên cứng ngắc, không cục cựa chi được. Mỗi lần như vậy thì phải ngâm mình vào hồ nước nóng, hoặc phải xoa dầu nóng khắp cổ và lưng thì mới nhúc nhích được. Hai năm gần đây, chứng đau nhức lan xuống đến bàn tay, những khớp ngón tay sưng lên và vài ngón bị lệch hẳn qua một bên, mỗi tối phải dùng dầu nóng mà xoa bóp và dán Salonpas hoặc thuốc cao. Tôi khuyến khích dùng nước trà hàng ngày gần 6 tháng nay, và cũng lạ là những tay không còn bị sưng, cổ bớt tê cứng so với những năm trước. Cái hot tub trong nhà không cần phải chạy vào mùa đông năm nay. Mỗi tối, Bích Loan không còn ngồi mà xoa với bóp dầu nóng. Tổng kết kinh nghiệm do các bạn đã dùng nước gạo lức rang. Sau 1 tháng, bạn sẽ thấy nước da bạn sáng nhuận, không còn khô nhám. Các chị nhiều khi không cần phải xài kem dưỡng da vì da đã trở nên láng tự nhiên, thấy tốt rất thích.Trong người khỏe không còn mệt mỏi, uể oải. Nửa đêm hay buổi sáng sớm thức dậy rất tỉnh táo, thiền lâu tốt.Uống nước gạo lức khoảng 3, 4 tuần bạn sẽ thấy trong người nóng, lở miệng... bạn đừng sợ, cứ tiếp tục vài ngày là hết. Sau đó, cơ thể tự điều hòa trở lại bình thường và bạn không còn bị nóng nữa.Những người lớn tuổi không còn bị đi tiểu đêm, dù uống một ngày 5, 6 ly nước gạo lức.Mọi người đều cảm thấy thân thể ấm áp không còn bị cảm giác ớn lạnh khi ra ngoài dù trời mùa đông tuyết giá và nhiệt độ xuống thấp như Thầy vẫn thường lo lắng cho chúng ta về cả hai mặt sức khỏe và tâm linh. Khi bạn có sức khỏe tốt, thân thể khỏe mạnh, bạn sẽ làm việc hăng say, vui vẻ hơn và tâm linh tiến hóa thanh nhẹ hơn, thực hành trọn lành đời đạo song tu.Đọc đến đây, bạn còn chờ gì nữa mà không chạy ra tiệm mua ngay nồi slow cooker và mươi ký gạo lức tròn về rang, nấu mà uống thử đi chứ.Chỉ cần rang gạo đến nâu đậm là được. Uống đậm hay lạt là tùy quý bạn (xin xem phần công thức trên). Ngoài ra, vì thích uống nóng, tôi thường cho vào bình thủy mỗi sáng để đem đi làm uống dần trong ngày. Mùa đông hay hè đều uống được. Các bạn có thể tìm hiểu thêm bằng cách liên lạc về : Trọng (703) 913-7497 hoặc (703) 324-5043 (sở), hoặc Email : tdnguyen97266@yahoo.com. Kể ra câu chuyện trên, tôi hy vọng giúp các bạn có cơ hội tự chữa bịnh cho mình và với kết quả tốt của bạn, bạn sẽ giúp cho những người chung quanh bạn để họ cũng có một sức khỏe tốt. Vì mỗi người chúng ta trên 40 tuổi thì hầu như ai cũng có vấn đề về gan (yếu gan, chai gan, xơ gan...). Cho nên, vấn đề thanh lọc gan rất là cần thiết. Nguyễn đức Trọng Phụ Chú: 1) Nên dùng gạo lức hạt tròn (brown rice, short grain), có thể mua tại Winco, hoặc healthfood store . 2) Không nên rửa gạo lức trước khi rang, vì nếu làm như vậy sẽ làm cho người nóng hơn bình thường. Cơ thể mát là tốt nhất. 3) Dùng chảo mà rang trên lò, ở độ nóng Medium Low. Khi rang nhớ dùng đũa khuấy nhẹ và đều, vì nếu để yên một chỗ khá lâu hạt gạo sẽ bị cháy, hoặc nở bung rạ. Tôi thông thường rang một lần từ 3 đến 4 pounds để xài dần, và mất khoảng 75 đến 90 phút. Nhớ mở cửa sổ để tránh khói trong nhà. Tôi vừa đọc sách vừa rang gạo nên không bao giờ thấy chán. 4) Nấu 1 muỗng canh (table sthingy) gạo lức rang với 1 lít nước trong nồi Slow Cooker, ở độ nóng Low, từ 9 đến 10 tiếng. Bạn có thể nấu vào buổi tối trước khi đi ngủ, và như vậy đến sáng trước khi đi làm có thể cho vào bình thủy mang thẹo Hoặc nấu buổi sáng và đến chiều tối thì xong. 5) Nên uống nước gạo lức rang ở độ nóng thích hợp với mình từ 2 đến 3 lít một ngày . Nước gạo lức rang không nên để lâu trong nồi quá 1 ngày, vì sẽ làm nước bị đục và có thể bị thiu . Vậy nếu dùng không hết, hoặc không có bình thủy, nên sớt ra, để nguội và cất trong tủ lạnh. Trước khi uống chỉ việc hâm nóng là được. 6) Xác gạo lức khi nấu xong không nên bỏ, vì có thể ăn như cháo và làm nhẹ bụng. Người mới bệnh dậy, hoặc đầy bụng, hoặc chán không biết ăn gì (vì quá thừa thãi), cứ ăn vài ngày để giúp bao tử làm việc nhẹ nhàng, sẽ tạo sự thèm và thích ăn. 7) Việc chữa bệnh hay gìn giữ sức khỏe tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Nước gạo lức rang chỉ là một phần mà thôi . Việc tập thể dục hàng ngày (hoặc đi bộ) từ 30 đến 60 phút, uống nhiều nước (7 đến 8 ly một ngày), đã giúp cho sức khỏe quí vị đến 60% rồi. Phụ vào đó tinh thần yêu đời, yêu người, mong mỏi giúp đỡ những người chung quanh, ăn uống với nhiều rau cỏ và ngũ cốc thay vì thịt và dầu mỡ, quí vị sẽ chẳng còn lo chi nửa. 8) Dành thời giờ cho việc cầu nguyện, tu bổ và sửa chữa bản thân mình. Thay vì phung phí vào những tranh chấp, nói chuyện thị phi, chẳng đi đến đâu mà còn phí sức nửa. 9) Định luật “Sanh, Lão, Bệnh, Tử” không ai có thể tránh khỏi . Bình tâm chấp thuận mọi chuyện, và đấy chính là niềm an lạc của mình.
|
|