|
Post by NHAKHOA on Mar 14, 2009 13:20:30 GMT -5
Thuốc lá và những điều cần biết Saturday, March 07, 2009 [img src="http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/articlefiles/91813-medium_KHDS%20Picture-1[1].JPG"] Hình bên: Trong số 365,599 người Việt cư ngụ tại California, trên 60,000 người đang còn hút thuốc lá. Hút thuốc lá là nguyên nhân hàng đầu gây ra tử vong mà có thể tránh được tại Hoa Kỳ, và cũng là một trong những tác nhân độc hại nhất gây ra ung thư. Việc dùng thuốc lá đã được khoa học chứng minh có liên quan đến các căn bệnh trầm trọng như bệnh tim mạch và ung thư. Các trẻ em hít khói thuốc lá dễ mắc các bệnh cảm, suyễn, viêm tai, và bệnh về đường hô hấp. Trong hình, một điếu thuốc trong tay người đàn ông ở San Francisco, California. (Hình: Justin Sullivan/Getty Images) Hiển Mai tổng hợp Cây thuốc lá Tên khoa học là Nicotiana tabacum, loài cây thân thảo, họ Cà (Solanaceae). Nguồn gốc của cây thuốc lá là loại cây mọc hoang dại ở vùng nhiệt đới Châu Mỹ, được thuần hóa và gieo trồng rộng rãi ở nhiều vùng khí hậu khác nhau. Thời gian sinh trưởng khoảng 60 ngày ở vùng nhiệt đới và hơn 100 ngày ở vùng ôn đới. Cây thuốc lá được trồng để lấy nguyên liệu sản xuất thuốc lá và được chọn giống theo yêu cầu chế biến và thị hiếu người tiêu dùng. Giống được ưa chuộng nhất là thuốc lá vàng Virginia. Trong thuốc lá có chứa nicotin là một trong những chất độc hại, gây ung thư. Thế giới đã có những cuộc vận động không hút thuốc lá. Thành phần hóa học Trong lá có nhiều acid hữu cơ, quan trọng nhất là acid L-malic, và một acid riêng là acid nicotinic. Còn có asparagin, betain, isoamylamin, một pectin, một tanin, một chất gôm, caroten, các chất nhựa, một hỗn hợp parafin, tinh dầu, các chất thơm. Tro của lá khô giàu K và Ca. Alcaloid chính trong thuốc lá là nicotin. Hạt thuốc lá chứa nhiều nước; protin nguyên, cellulose; có các acid hữu cơ chủ yếu là acid citric, các acid malic và fumaric. Trong dầu hạt có các acid palmitic, oleic, linoleic và stearic. Còn có các vitamin A, B, E. Cơ chế nghiện thuốc lá Thói quen ham thích hút thuốc lá đến mức độ trở thành một nhu cầu cần thiết. Y học gọi nghiện hút thuốc lá là nhiễm độc thuốc lá hay nhiễm độc nicotin. Khi hút thuốc, nicotin nhanh chóng chuyển vào máu và di chuyển đến não, làm hoạt hóa cơ quan thần kinh. Có nhiều cách hút khác nhau: hút thuốc lá điếu (phổ biến nhất trên thế giới), hút xì gà, hút pip, tẩu, hút điếu bát, hút điếu cày... những cách hút này đều theo một quy trình chung là đốt cháy lá thuốc với một nhiệt độ khoảng 800 độ C thành khói qua một quá trình nhiệt phân, nhiệt tổng hợp và chưng cất, rồi hít khói này vào phổi. Tại sao người hút thuốc không thể bỏ được thói quen tai hại này? Trong những năm gần đây, các nhà khoa học đã bắt đầu nghiên cứu vai trò di truyền đối với việc nghiện thuốc lá. Gần đây, họ đã đưa ra một vài công trình nghiên cứu về cơ chế di truyền, khiến người hút thuốc không thể bỏ được thói quen tai hại này. Các nhà khoa học tập trung chú ý tới gene trong cơ thể có thể là nguyên nhân của hiện tượng trên. Gene phát hiện có chứa thông tin quyết định cho việc tổng hợp các enzyme có chức năng phân hủy một số chất có hoạt tính sinh học trong cơ thể, kể cả chất nicotin. Mức độ hoạt động của gene này sẽ ảnh hưởng tới việc phân hủy nicotin và khả năng nghiện thuốc. Nghiên cứu này cho rằng nguyên nhân gây nên bệnh ung thư phổi ở những người hút thuốc lá không phụ thuộc vào số lượng thuốc lá hút nhiều hay ít mà do khả năng chuyển hóa nicotine của họ nhanh hay chậm. Tuy nhiên, những người mới hút thuốc cũng như những người nghiện thuốc lá nặng không nên hy vọng rằng những quy luật mang tính di truyền hoàn toàn có thể bảo vệ họ tránh được những hậu quả nghiêm trọng của việc hút thuốc. Những sản phẩm cần biết từ khói thuốc Khói thuốc cấu tạo từ một hỗn hợp khí và bụi. Trong khói thuốc lá điếu có rất nhiều hợp chất thải ra và được chia thành 4 nhóm sau: Nhóm thứ nhất bao gồm các alcaloit, trong số đó nicotin là chất chủ yếu gây nghiện. Nicotin xâm nhập vào cơ thể qua khói hút vào, đến phế nang và chuyển vào máu tuần hoàn và chỉ sau 7-8 giây kịp đến não. Ở não nồng độ nicotin cao hơn ở các bộ phận khác của cơ thể (xt. Nicotin). Nhóm thứ hai là cacbon monooxit (CO), chất này kết hợp với hemoglobin của máu thành một phức chất bền vững (cacboxihemoglobin) làm giảm chức năng chuyển oxi đến các mô của cơ thể và về lâu dài sẽ ảnh hưởng xấu đến hệ tim mạch; ở phụ nữ có thai, sẽ ảnh hưởng đến thai nhi. Ngoài ra CO cũng gây xơ vữa động mạch. Nhóm thứ ba thuộc các chất kích thích (phenol, anđehit, acrolein), có độc tính đối với thảm lông chuyển niêm mạc, khiến cho thảm này không hoạt động có hiệu quả và tạo điều kiện gây viêm phế quản mạn tính tỏa lan, gây ứ đọng các chất tạo ung thư. Nhóm cuối thuộc các chất gây ung thư: Theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới (World Health Organization - WHO), trong khói thuốc có 40 chất hóa học được xếp vào loại gây ung thư. Gồm những chất như nicotin, formaldehyde, oxide carbon, arsenic, hắc ín (tar) và benzene, ammonia, acetone, hydrogen cyanide ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thần kinh, mạch máu và nội tiết gây ra những bệnh tim mạch, giảm trí nhớ và các bệnh ung thư. Khói thuốc đã bị Cơ Quan Quốc Tế Nghiên Cứu Về Ung Thư (International Agency for Research on Cancer - IARC) trực thuộc Tổ Chức Y Tế Quốc Tế (WHO) xếp vào các chất gây ung thư bậc 1. Trong nhóm này xếp những chất mà chỉ cần khối lượng nhỏ cũng có thể gây ung thư, không có hạn mức, nghĩa là hoàn toàn có hại cho mình và cho người khác, dù chỉ là một khối lượng nhỏ. Trong khói thuốc lá còn có các chất phóng xạ. Chất Carbon monoxide (CO) trong thuốc lá rất độc hại đối với tim, phổi và mạch máu. Carbon monoxide (CO) là một chất khí độc sinh ra từ sự đốt cháy chất hữu cơ như là điếu thuốc lá. Ðó là một trong những chất độc có trong khói thuốc, và rất độc hại đối với tim, phổi và mạch máu. Ở phụ nữ có thai, carbon monoxide đi qua máu để vào thai nhi, khiến sự cung cấp oxy bị giảm đi. Carbon monoxide cũng hiện diện trong không khí bị ô nhiễm, được thải ra do sự đốt cháy xăng dầu, do đó mà người dân ở thành thị phải hít thở thứ không khí này. Thậm chí những người không hút thuốc sống ở thành phố, trong máu của họ cũng có một số carbon monoxide, vì cơ thể con người chỉ sản xuất một lượng rất nhỏ carbon monoxide. Ảnh hưởng của Carbon Monoxide trên cơ thể con người Khi người ta hít khói thuốc lá vào phổi, carbon monoxide đi qua thành phổi vào máu, nó bắt đầu tấn công haemoglobin, một chất có trong hồng cầu. Hồng cầu có nhiệm vụ chở oxy đến khắp cơ thể. Tuy nhiên hồng cầu lại nhạy với carbon monoxide hơn oxy, vì thế nếu có bất cứ một carbon monoxide nào trong máu, nó lập tức tấn công haemoglobin thay vì oxy. Việc này khiến cơ thể phải gắng sức thêm do đó tim phải làm việc nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu oxy cho cơ thể. Trong khi tim làm việc nhiều hơn thì oxy cung cấp cho nó lại ít đi. Tim bị căng thẳng cộng thêm tác động của những chất độc trong khói thuốc sẽ dẫn đến bệnh tim. Ở những xã hội công nghiệp, bệnh tim và mạch máu do hút thuốc lá là nguyên nhân lớn nhất đưa đến cái chết sớm, làm nhiều người chết hơn cả ung thư phổi. Hít thở khói thuốc dù ít hay nhiều đều không an toàn Dự Luật 13 (AB13) của tiểu bang California cấm hút thuốc tại những nơi làm việc bị vây kín. Luật này nhắm vào các nơi làm việc trong nhà, hầu có thể xác định một cách rộng rãi bất cứ nơi làm việc nào bao gồm các văn phòng và tiệm ăn là những nơi có các bức tường và trần nhà. Khói thuốc lá có các hóa chất độc hại. Có ít nhất 43 chất độc hại trong số đó được biết là gây ra ung thư. Hít thở khói thuốc vào sẽ có hại. Khi khói thuốc bay phả ra ngoài không khí, những người gần đó bị buộc phải hít vào. Hít khói thuốc của người khác phả ra khiến quý vị gặp nhiều nguy cơ nghiêm trọng về sức khỏe. Các chất độc trong khói thuốc phả ra vẫn tồn tại gây nguy hiểm cho sức khỏe rất lâu sau khi đã hút thuốc xong. Các chất độc trong khói thuốc ra bay dính vào tất cả mọi thứ gần người hút thuốc. Chúng bám dính vào da, tóc, và quần áo của những người chung quanh. Các hóa chất này dính vào thảm, bàn ghế, và các bề mặt khác. Các nguy cơ có hại cho sức khỏe, gồm cả bị suyễn, do hít thở khói thuốc. Một cuộc nghiên cứu của Viện Ung Thư Quốc Gia cho thấy là hàng năm có đến 26,000 trẻ em bị suyễn vì ở quanh nơi có khói thuốc phả ra. Thuốc lá chuyển gene có hàm lượng nicotine thấp Công ty Vector Tobacco, đang chào bán một loại thuốc lá mới được làm từ cây thuốc lá biến đổi gene. Loại thuốc này được sản xuất để cho phép người hút giảm mức nicotine - chất gây nghiện trong thuốc lá. Mặc dù công ty cho biết loại thuốc Quest chỉ chứa một lượng nicotine nhỏ song không khẳng định loại thuốc lá này giảm CO hoặc các hóa chất khác tăng nguy cơ ung thư. Mức nicotine trong Quest 1 thấp hơn 17% so với một loại thuốc lá trung bình nhẹ. Quest 2 là 58% và Quest 3 hoàn toàn không có nicotine. 7 bang nơi thuốc lá Quest đang được bán là New York, New Jersey, Pennsylvania, Ohio, Indiana, Illinois và Michigan. Cây thuốc lá không còn chứa nicotine Các nhà khoa học thuộc Ðại Học Kyoto (Nhật Bổn) nghiên cứu tạo ra loại thuốc lá không chứa độc tố nicotine trong khi phát hiện ra một loại gene kiểm soát việc chuyển nicotine từ rễ cây thuốc lá lên các lá. Nghiên cứu cho biết đã xác định được loại gene có tác dụng chuyển nicotine lên lá cây thuốc lá. Khi ức chế gene này có thể ngăn ngừa tiến trình chuyển nicotine và tích lũy loại chất độc này ở lá. Theo cơ chế này có thể giúp chúng ta tạo ra loại cây thuốc lá hoàn toàn không có nicotine. Phát hiện này giúp những người nghiện thuốc lá họ có thể hút thuốc mà không sợ nguy cơ mắc ung thư phổi!!!
|
|
|
Post by NHAKHOA on Mar 14, 2009 13:22:07 GMT -5
Uống cà-phê và trà thường xuyên có thể giảm nguy cơ đột quịSaturday, February 28, 2009 HealthDay News - Ðây là tin mừng cho những ai thích uống cà-phê hoặc trà: Hai cuộc nghiên cứu mới cho thấy rằng cả hai thức uống này đều có thể làm giảm nguy cơ lên cơn đột quị.
Khi mức tiêu thụ cà-phê càng cao thì nguy cơ lên cơn đột quị càng giảm, theo lời Bác Sĩ David Liebeskind, tác giả của một cuộc nghiên cứu về cà-phê và cũng là giáo sư khoa thần kinh tại trường đại học University of California, Los Angeles.
Bác Sĩ Liebeskind đã lượng giá sự liên quan giữa tiêu thụ cà-phê và chứng đột quị bằng cách khảo sát những số liệu từ cuộc nghiên cứu toàn quốc về sự liên hệ giữa dinh dưỡng và sức khỏe tên là “Third National Health and Nutrition Examination Survey,” được thi hành từ năm 1988 tới năm 1994. Ông chú trọng vào 9,384 người trên 40 tuổi thường xuyên uống cà-phê. Trong số đó có 500 người (tức là khoảng 5%) được bác sĩ cho biết họ đã lên cơn đột quị. Và 2,793 người (tức là 29.8%) đã báo cáo họ có triệu chứng về đột quị hoặc “tiểu đột quị” (mini-stroke: cơn đột quị nhẹ vì động mạch tạm thời bị nghẽn).
Khi xét tới sự liên hệ giữa đột quị và tiêu thụ cà-phê, Bác Sĩ Liebeskind nhận thấy mức uống cà-phê của những người nói trên càng cao thì họ càng giảm nguy cơ lên cơn đột quị hoặc tiểu đột quị. Ông nhận thấy những người uống từ 6 li cà-phê trở lên mỗi ngày thì có 2.9% nguy cơ đột quị, trong khi những người chỉ uống 1 hoặc 2 li mỗi ngày thì có tới 5% nguy cơ.
Những kết quả nghiên cứu đã được trình bày trong cuộc hội thảo 2009 International Stroke Conference ở San Diego của hiệp hội American Stroke Association hôm 19 Tháng Hai.
Cuộc khảo sát về cà-phê mới nhất này đã được thi hành hầu như đồng thời với một cuộc nghiên cứu đã xuất bản trong số Tháng Hai 2009 của đặc san Circulation (Tuần Hoàn). Cuộc khảo sát này nhận thấy những phụ nữ không hút thuốc lá tiêu thụ cà-phê trong thời gian lâu dài thì giảm nguy cơ lên cơn đột quị. Ðể đi tới kết luận đó, các nhà nghiên cứu đã theo dõi hơn 83,000 phụ nữ không có tiểu sử liên quan tới đột quị, bệnh tim, tiểu đường, hoặc ung thư, đã tham gia một cuộc khảo sát trong năm 1980.
Họ nhận thấy nguy cơ đột quị giảm 20% cho những phụ nữ uống từ 4 li cà-phê trở lên mỗi ngày, và giảm 12% cho những bà đã uống từ 5 tới 7 li cà-phê mỗi tuần lễ.
Những người thường xuyên uống trà cũng được hưởng những phúc lợi tương tự, theo một cuộc nghiên cứu cũng được trình bày tại cuộc hội thảo nói trên ở San Diego.
Những người uống từ 3 li trà trở lên mỗi ngày thì giảm được 21% nguy cơ lên cơn đột quị so với những người chỉ uống 1 li mỗi ngày, theo cuộc nghiên cứu của Bác Sĩ Lenore Arab, giáo sư y khoa tại trường đại học University of California, Los Angeles. Bà đã thi hành một cuộc phân tích qui mô, bao gồm kết quả từ 9 cuộc nghiên cứu liên quan tới 4,378 ca đột quị trong số hơn 194,000 người, đa số ở Á Châu. Những người này thường xuyên uống trà đen và trà xanh, trong đó có chứa chất caffeine giống như cà-phê.
Bác Sĩ Arab nói rằng kết quả từ cuộc phân tích của bà cho thấy mức tiêu thụ trà càng cao thì nguy cơ đột quị càng giảm, và “chúng tôi nhận thấy trong mọi cuộc nghiên cứu đều có sự liên hệ như vậy.”
Tuy nhiên, bà nói thêm rằng người ta chưa biết rõ tại sao sự tiêu thụ trà giúp giảm nguy cơ đột quị. Một số người cho rằng có lẽ vì trà có hiệu ứng chống viêm sưng. Trong trà đen và trà xanh có một chất amino acid tên là theanine, có lẽ chất này giúp bảo vệ bộ óc. (n.m.)
|
|
|
Post by NHAKHOA on Mar 14, 2009 13:23:15 GMT -5
Nghiên cứu ở Hoa Kỳ: Cơn tức giận có thể gây ra cái chết cho những người yếu tim Friday, March 06, 2009 CHICAGO (Reuters) - Sự tức giận và một số những cảm xúc mạnh khác có thể dẫn tới sự trục trặc cho nhịp đập của tim và gây tử vong cho một số người mắc bệnh tim, theo một cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ được công bố hôm 23 Tháng Hai.
Trước đây đã có những cuộc nghiên cứu cho thấy rằng những cơn động đất, tình cảnh chiến tranh, hoặc thậm chí kết quả thất bại của một trận bóng tròn giải World Cup, có thể làm gia tăng tỉ lệ của những cái chết bất thình lình trong dân chúng vì đứng tim (cardiac arrest) - khi tim bỗng nhiên ngừng bơm máu cho cơ thể.
“Những cuộc nghiên cứu trước đây cho thấy rằng khi cả một dân số lớn bị căng thẳng, vì lý do nào đó, thì sẽ gia tăng những ca tử vong bất thình lình,” Bác Sĩ Rachel Lampert, thuộc trường đại Yale University ở New Haven, Connecticut, nói trong phúc trình nghiên cứu đã đăng trong đặc san Journal of the American College of Cardiology (Ðặc San của Trường Cao Ðẳng Khoa Tim Mỹ). “Cuộc nghiên cứu của chúng tôi có mục đích khảo sát xem sự căng thẳng cao độ có thể ảnh hưởng tới hệ thống truyền điện của tim như thế nào.”
Bác Sĩ Lampert và các đồng nghiệp đã khảo sát 62 bệnh nhân mắc bệnh tim có đeo máy khử rung tim (defibrillator) để dò nhịp đập trục trặc của tim - từ ngữ y khoa là “loạn nhịp” (arrythmia) - và phát ra một luồng điện kích thích để phục hồi nhịp tim đập bình thường.
“Ðây là những người mà chúng tôi biết có nguy cơ mắc chứng loạn nhịp tim,” Bác Sĩ Lampert nói.
Những bệnh nhân này đã tham gia một cuộc khảo sát trong đó họ thuật lại một cơn tức giận mới xẩy ra, trong khi toán nghiên cứu của Bác Sĩ Lampert thi hành một cuộc thử nghiệm gọi là “T-Wave Alternans” để đo lường mức độ bất ổn định của hệ thống truyền điện trong tim.
Bác Sĩ Lampert cho biết toán nghiên cứu đã nêu ra những câu hỏi để khiến cho các bệnh nhân sống lại những tình cảnh tức giận. Bà nói: “Trong khi thử nghiệm chúng tôi nhận thấy quả thật sự tức giận làm tăng thêm mức độ bất ổn cho hệ thống truyền điện trong tim của những bệnh nhân này.”
Kế đó, toán chuyên gia theo dõi các bệnh nhân trong thời gian ba năm để khảo sát xem những ai sẽ trải qua một cơn đứng tim và cần được máy khử rung tim phát ra một luồng điện kích thích.
Bác Sĩ Lampert nói: “Những người nào đã trải qua sự bất ổn cao nhất trong hệ thống truyền điện của tim, do cơn tức giận gây ra, thì có nguy cơ cao hơn gấp 10 lần sẽ xẩy ra một cơn loạn nhịp tim trong thời gian họ được theo dõi.”
Bà nói thêm rằng cuộc nghiên cứu này cho thấy sự tức giận có thể nguy hiểm tới tính mạng, ít nhất là đối với những người có sẵn nguy cơ trục trặc hệ thống truyền điện trong tim.
“Nghiên cứu cho thấy quả thật sự tức giận gây ảnh hưởng cho hệ thống truyền điện của tim tới mức độ có thể dẫn tới cái chết bất thình lình,” Bác Sĩ Lampert nói.
Tuy nhiên, bà nói thêm rằng người ta không nên suy diễn những hậu quả như vậy đối với những người có tim bình thường.
Bà nói: “Sự tức giận và sự căng thẳng có thể ảnh hưởng đối với những người có tim bình thường một cách rất khác, khi so sánh ảnh hưởng đối với những người có cấu trúc tim bất bình thường.”
Bác Sĩ Lampert đang thi hành một cuộc nghiên cứu mới để tìm hiểu xem những khóa luyện tập sự kềm chế cơn tức giận có thể giúp giảm nguy cơ loạn nhịp tim cho nhóm bệnh nhân nói trên hay không.
Mỗi năm ở Hoa Kỳ xẩy ra hơn 400,000 cái chết do đứng tim bất thình lình, theo thống kê của American College of Cardiology. (n.m.)
|
|
|
Post by NHAKHOA on Mar 14, 2009 13:24:51 GMT -5
Nghiên cứu mới ở Anh Quốc: Hít thở khói thuốc lá do người khác hút làm tăng nguy cơ lãng trí Friday, February 20, 2009
LONDON (AFP) - Hít khói thuốc lá do người khác hút làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh lãng trí và những vấn đề khác về nhận thức, ngay cả trong số những người không bao giờ hút thuốc, theo một phúc trình nghiên cứu được công bố hôm 13 Tháng Hai.
Trong số những hiệu ứng có hại cho những người không hút thuốc nhưng thường xuyên hít thở khói thuốc do người khác hút gồm có sự gia tăng nguy cơ mắc những bệnh ung thư phổi, tiểu đường, đột quị, và những bệnh tim mạch - theo những cuộc nghiên cứu trước đây.
Về phương diện ảnh hưởng của khói thuốc lá đối với chức năng của bộ óc, những cuộc nghiên cứu trước đây cho thấy trí nhớ của chính những người hút thuốc có thể bị tổn hại, nhưng cho tới nay chỉ có ít bằng chứng về ảnh hưởng đối với trí nhớ của những người hít thở khói thuốc lá một cách thụ động.
Một toán chuyên gia, do Giáo Sư David Llewellyn của đại học Cambridge University cầm đầu, đã dùng những phương pháp mới để thi hành một cuộc thí nghiệm lớn nhất từ trước tới nay về ảnh hưởng của khói thuốc lá. Họ nhận thấy rằng ngay cả những người không bao giờ hút thuốc lá nhưng thường xuyên ở bên cạnh những người hút thì có số điểm thấp hơn trong những cuộc trắc nghiệm về nhận thức.
Cuộc nghiên cứu đã được thi hành cho gần 5,000 người trên 50 tuổi; trong số đó có những người trước đây đã hút thuốc nhưng đã cai, và những người chưa bao giờ hút thuốc.
Những người tình nguyện tham gia cuộc nghiên cứu được chia thành bốn nhóm tùy theo sự tiếp cận với khói thuốc do người khác hút.
Mức độ tiếp cận đó được xác định qua những mẫu nước miếng của họ - bằng cách thử nghiệm để đo lường một phó sản của chất nicotine gọi là “cotinine.”
Chất cotinine lưu lại trong nước miếng của người hít khói thuốc lá lâu khoảng 25 ngày. Khi mức cotinine hiện hữu trong nước miếng càng cao thì có nghĩa là sự tiếp xúc với khói thuốc lá do người khác hút càng nhiều.
Kế đó, những người tham gia cuộc nghiên cứu đã thi hành những cuộc trắc nghiệm tâm thần để lượng giá chức năng của bộ óc và khả năng nhận thức, chú trọng vào trí nhớ và khả năng điều động những con số và ngữ vựng.
Dùng nhóm người có mức cotinine thấp nhất để làm tiêu chuẩn, toán nghiên cứu nhận thấy có sự liên hệ rõ rệt và chắc chắn giữa sự tổn hại cho chức năng óc và sự tiếp xúc với khói thuốc lá do người khác hút.
Trong nhóm gồm những người có mức cotinine cao nhất trong nước miếng, sự tổn hại về nhận thức ở mức 44% cao hơn nhóm được dùng làm tiêu chuẩn.
Các nhà nghiên cứu đã xét những yếu tố liên quan tới những người tham gia, như tuổi tác và những điều kiện sức khỏe - trong số đó có tiểu sử về bệnh tim - có thể ảnh hưởng tới những kết quả thí nghiệm.
“Trước đây người ta đã nhận thấy có mô hình tương tự như vậy đối với những người không bao giờ hút thuốc lá và những người từng hút nhưng đã cai,” toán nghiên cứu viết trong phúc trình đăng trên đặc san y khoa British Medical Journal (BMJ) và thêm:
“Trong khi đang có những tranh luận trên thế giới về vấn đề tiếp xúc với khói thuốc lá do người khác hút, đây là một đề tài quan trọng đối với ngành y tế công cộng.”
Trong 15 năm qua, các chính phủ ở Bắc Mỹ, Âu Châu và Úc đã ban hành những luật lệ cấm hút thuốc lá ở những chỗ làm việc, trong quán rượu, trong tiệm ăn, và những nơi công cộng khác. (n.m.)
|
|
|
Post by NHAKHOA on Mar 14, 2009 13:26:24 GMT -5
Những người ghiền thuốc lá có menthol khó cai hơn Saturday, January 31, 2009 NEW YORK (Reuters) - Một cuộc nghiên cứu mới cho thấy rằng loại thuốc lá có ướp menthol (dầu bạc hà) khó cai hơn loại thuốc lá thường, nhất là đối với những người có lợi tức thấp.
Những kết quả tìm thấy này đem lại thêm những bằng chứng thuốc lá ướp dầu bạc hà (mentholated cigarettes) có thể khiến cho người hút bị ghiền nặng hơn, đồng thời chúng cũng cho thấy một đặc điểm thuộc về kinh tế xã hội nơi những người hút thuốc lá, theo lời các nhà nghiên cứu.
Họ nhận thấy rằng những người hút thuốc thuộc các sắc dân da đen và Latino ưa chuộng loại thuốc lá ướp dầu bạc hà thì có tỉ lệ cai nghiện trường kỳ thấp hơn những người cùng sắc dân có thói quen hút loại thuốc lá thông thường. Các nhà nghiên cứu không thấy có sự khác biệt như vậy trong số những người da trắng nói chung, nhưng có sự khác biệt tương tự như trên trong số những người da trắng thất nghiệp: những người nào có thói quen hút loại thuốc lá ướp dầu bạc hà thì cũng có tỉ lệ cai nghiện thấp hơn.
Một cuộc nghiên cứu trước đây đã nhận thấy rằng những người ghiền loại thuốc lá ướp dầu bạc hà thì thường có mức nicotine trong máu cao hơn những người ghiền loại thuốc lá thông thường.
“Những kết quả từ cuộc nghiên cứu này có thể ngụ ý rằng những người ghiền loại thuốc lá ướp dầu bạc hà - nhất là những người thuộc giới có lợi tức thấp - thì thường hít chất nicotine và những độc tố từ mỗi điếu thuốc lá vào phổi nhiều hơn,” ông Kunal K. Gandhi, người cầm đầu cuộc nghiên cứu, nói với thông tấn Reuters.
Hậu quả từ sự kiện nói trên khiến cho những người hút loại thuốc lá ướp dầu bạc hà trở thành ghiền nặng hơn, theo lời giải thích của ông Gandhi, một chuyên gia về vấn đề cai thuốc lá thuộc trường y khoa Robert Wood Johnson Medical School của trường đại học University of Medicine and Dentistry of New Jersey, ở New Brunswick, New Jersey.
Ông Gandhi và các đồng nghiệp nói rằng mức lợi tức có thể ảnh hưởng tới cung cách hít khói thuốc của người hút. Những người ghiền thuốc lá có lợi tức thấp có thể muốn hút từ mỗi điếu thuốc nhiều lần hơn hoặc hít khói thuốc vào sâu trong phổi.
Chất bạc hà khiến cho hành động nói trên trở thành dễ dàng hơn, vì hiệu ứng “mát” của nó giúp làm dịu bớt vị chát của chất nicotine và những độc tố khác từ thuốc lá.
Những kết quả từ cuộc nghiên cứu - đã đăng trên đặc san y khoa International Journal of Clinical Practice - căn cứ vào 1,688 người hút thuốc lá đã điều trị để cai nghiện trong bốn năm qua. Trong số đó có một phần ba người da trắng hút loại thuốc lá ướp dầu bạc hà, so với tỉ lệ hai phần ba người Mỹ gốc Latino và 81% người Mỹ gốc Phi Châu.
Toán nghiên cứu nhận thấy rằng trong số những người da đen hút loại thuốc lá ướp dầu bạc hà được điều trị để cai nghiện, chỉ có một phần ba khả năng bỏ hút thuốc, sau một tháng điều trị, so với những người da đen hút loại thuốc lá thông thường. Tỉ lệ cũng tương tự như vậy trong số những người hút thuốc thuộc sắc dân Latino.
Những người hút loại thuốc lá ướp dầu bạc hà cũng vẫn khó có khả năng cai nghiện sau sáu tháng điều trị.
Toán nghiên cứu ghi nhận rằng những người hút loại thuốc lá ướp dầu bạc hà có thể vẫn ghiền nặng hơn, mặc dù con số điếu thuốc mà họ hút hàng ngày tương đối thấp. Họ nói thêm rằng trong số những dấu hiệu của sự ghiền nặng là có thói quen thức dậy ban đêm để hút thuốc và cần hút thuốc trong vòng nửa tiếng đồng hồ sau khi thức dậy mỗi buổi sáng.
Các nhà nghiên cứu nói rằng những người ghiền sẽ dễ cai hơn nếu họ được các chuyên gia về cai nghiện hướng dẫn, đồng thời dùng những dược phẩm có hiệu ứng khắc phục chất nicotine. (n.m.)
|
|
|
Post by NHAKHOA on Mar 14, 2009 13:33:58 GMT -5
Cần sa làm tăng nguy cơ ung thư dịch hòan Monday, February 09, 2009
WASHINGTON.- Theo một cuộc nghiên cứu phổ biến hôm 9 Tháng Hai, sử dụng cần sa có thể làm tăng cơ nguy phát sinh bệnh ung thư dịch hoàn.
Cuộc khảo sát 369 người đàn ông tuổi từ 18 đến 44 trong vùng Seattle, Washington, có ung thư dịch hoàn và 979 người không mắc bệnh này chỉ ra rằng những người dùng cần sa có nguy cơ phát bệnh cao hơn 70%.
Nguy cơ cao nhất là với những người đã dùng cần sa trên 10 năm, ít nhất một lần hàng tuần và bắt đầu trước tuổi 18.
Nhà nghiên cứu Stephen Schwartz của trung tâm ung thư Fred Hutchinson tại Seattle xác nhận rằng đây là cuộc nghiên cứu đầu tiên về sự liên quan giữa ung thư dịch hoàn và cần sa.
Trả lời phỏng vấn điện thoại, ông Schwartz cho biết phải tìm hiểu thêm nữa để xác định vai trò của cần sa trong tiến trình nảy sinh ung thư dịch hoàn.
Các nhà nghiên cứu nhận thấy hình thức ung thư dịch hoàn gọi là nonseminoma chiếm 40% là phát triển nhanh và khó chữa.
Dù vậy, các nhà chuyên môn chưa biết chắc nguyên nhân của ung thư phát sinh ở các đấng nam nhi tuổi từ trên 20 đến trên 30.
Ung thư dịch hoàn cũng thường xẩy ra hơn với những người có thân nhân mắc bệnh này.
Bệnh ung thư dịch hoàn đáp ứng các chữa trị và tỉ lệ sống còn trong 5 năm được tính là 96%.
Hàng năm, khoảng 8000 người phát bệnh ung thư dịch hoàn tại Hoa Kỳ, và khắp nước hiện có 140,000 bệnh nhân sống sót. (reuters-K)
|
|
|
Post by NHAKHOA on Mar 14, 2009 13:35:28 GMT -5
Nghiên cứu: Uống cà-phê giúp giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư trong miệng Tuesday, January 20, 2009
NEW YORK (Reuters) - Một cuộc nghiên cứu mới ở Nhật Bản cho thấy rằng uống cà-phê giúp giảm nguy cơ phát sinh bệnh ung thư trong miệng hoặc cuống họng.
Ðể khảo sát hiệu ứng bảo vệ của cà-phê, Bác Sĩ Toru Naganuma, thuộc trường đại học Tohoku University, và các đồng nghiệp đã phân tích những số liệu từ cuộc nghiên cứu tên là Miyagi Cohort Study trong dân chúng Nhật.
Cuộc nghiên cứu Miyagi Cohort Study bao gồm những thông tin về thói quen dinh dưỡng, kể cả sự tiêu thụ cà-phê. Cuộc nghiên cứu này bao gồm hơn 38,000 người, ở tuổi từ 40 tới 64, không có tiểu sử mắc bệnh ung thư vào lúc bắt đầu. Trong suốt 13 năm họ được theo dõi, đã có 157 trường hợp mắc bệnh ung thư trong miệng, hoặc ung thư trong cuống họng và thực quản.
Khi so sánh với những người không uống cà-phê, những người uống một ly cà-phê, hoặc nhiều hơn, mỗi ngày thì giảm một nửa nguy cơ phát sinh những bệnh ung thư nói trên, theo phúc trình của toán nghiên cứu, do Bác Sĩ Naganuma cầm đầu, đã đăng trên đặc san y khoa Mỹ American Journal of Epidemiology, số Tháng Mười Hai năm 2008.
Họ ghi nhận rằng sự giảm nguy cơ nói trên bao gồm cả những người có nguy cơ cao có thể phát sinh những bệnh ung thư đó, nghĩa là gồm những người thường uống nhiều rượu và/hoặc có thói quen hút thuốc lá vào lúc bắt đầu cuộc nghiên cứu.
Bác Sĩ Naganuma nói với thông tấn Reuters: “Trước đây chúng tôi đã không dự kiến rằng chúng tôi có thể nhận thấy có sự liên hệ đảo nghịch đáng kể như vậy giữa sự tiêu thụ cà-phê và nguy cơ mắc những bệnh ung thư nói trên, ngay cả đối với những người thuộc nhóm có nguy cơ cao.”
Các nhà nghiên cứu kết luận trong phúc trình: “Tuy sự chấm dứt tiêu thụ rượu và hút thuốc lá hiện nay được coi là cách tốt nhất để giúp giảm nguy cơ phát sinh những bệnh ung thư này, cà-phê có thể là một yếu tố ngăn ngừa đáng kể cho cả những người có nguy cơ thấp lẫn những người có nguy cơ cao.” (n.m.)
|
|
|
Post by NHAKHOA on Mar 14, 2009 13:49:30 GMT -5
Hít khói thuốc lá do người khác hút có thể ảnh hưởng tới sự thu thai Tuesday, December 16, 2008
WASHINGTON (Reuters) - Những phụ nữ hít thở khói thuốc lá do người khác hút từ thời họ còn nhỏ thì khi trưởng thành sẽ có nhiều nguy cơ gặp khó khăn để thụ thai và dễ bị sẩy thai hơn những phụ nữ khác, theo một cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ được công bố hôm mùng 4 Tháng 12.
Các nhà nghiên cứu nói rằng những độc tố trong khói thuốc lá có thể gây thương tổn vĩnh viễn cho cơ thể của những phụ nữ đã thường xuyên hít khói thuốc lá lúc còn trẻ, dẫn tới những trục trặc khi họ trưởng thành. Toán nghiên cứu nói thêm rằng những điều tìm thấy này càng khiến cho người ta cần phải hạn chế những nơi hút thuốc lá.
Tiến Sĩ Luke Peppone, thuộc trường đại học University of Rochester ở New York, và Bác Sĩ Kenneth Piazza, thuộc viện ung thư Roswell Park Cancer Institute ở Buffalo, New York, và các đồng nghiệp, đã khảo sát 4,800 phụ nữ được điều trị tại viện Roswell Park.
Những phụ nữ đó được yêu cầu cho biết chi tiết về những lần mang thai của họ, về những nỗ lực để thụ thai, và về những vụ sẩy thai, cùng với tiểu sử của họ liên quan tới hút thuốc lá hoặc đã thường xuyên hít thở khói thuốc lá do người khác hút.
Trong số những phụ nữ nói trên, có 11 phần trăm báo cáo rằng họ đã gặp khó khăn khi muốn thụ thai, và khoảng một phần ba đã sẩy thai một lần hoặc nhiều hơn, theo phúc trình của toán nghiên cứu đăng trên đặc san Tobacco Control (Kiểm Soát Thuốc Lá).
Họ nói thêm: “Có 43 phần trăm báo cáo đã từng gặp trở ngại nào đó liên quan tới thụ thai (như sẩy thai và/hoặc gặp khó khăn khi muốn thụ thai).
Những phụ nữ nào nhớ lại rằng cha mẹ họ hút thuốc lá khi họ còn trẻ thì có hậu quả cao hơn 26 phần trăm về chuyện gặp khó khăn khi muốn thụ thai, và những phụ nữ nào thường hít thở khói thuốc lá do người khác hút thì tăng 39 phần trăm nguy cơ bị sẩy thai, theo phúc trình của toán nghiên cứu.
Một phần năm số phụ nữ tham gia cuộc nghiên cứu báo cáo đã có thời gian thường xuyên hít thở khói thuốc lá do người khác hút ở thời kỳ nào đó trong đời họ, và một nửa đã lớn lên trong những gia đình có cha mẹ hút thuốc lá.
“Những số thống kê này thật là đáng quan tâm và vạch ra thêm một điều nguy hiểm nữa liên quan tới sự hít thở khói thuốc do người khác hút,” phúc trình nói và thêm:
“Những ảnh hưởng do hút thuốc lá, hoặc do hít thở khói thuốc lá, đối với sự thụ thai và mang thai vẫn còn là một ưu tiên cần quan tâm trong ngành y tế công cộng, vì khoảng 15 phần trăm những phụ nữ có thai vẫn tiếp tục hút thuốc trong suốt thời gian mang thai, và khoảng 43 triệu phụ nữ ở Hoa Kỳ thường xuyên hít thở khói thuốc lá do người khác hút.”
Các nhà nghiên cứu nói rằng có thể độc tố trong khói thuốc lá can thiệp vào hiệu ứng bình thường của những kích thích tố liên quan tới sự thụ thai và mang thai. Nó cũng có thể ảnh hưởng tới cổ tử cung của phụ nữ, là nơi tiếp dẫn tinh trùng đi qua đó để thụ tinh cho trứng.
Những cuộc nghiên cứu khác trước đây đã nhận thấy có sự liên quan giữa khói thuốc lá với khuyết tật bẩm sinh của thai nhi, và với hội chứng hài nhi chết bất ngờ trong khi đang ngủ. (n.m.)
|
|
|
Post by NHAKHOA on Mar 14, 2009 13:54:12 GMT -5
Khói thuốc có thể làm chậm quá trình lành vết thương ở trẻ em Friday, April 16, 2004
Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng
KHÓI THUỐC CÓ THỂ LÀM CHẬM VIỆC LÀNH VẾT THƯƠNG Ở TRẺ EM
Ðó là phát hiện từ một nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu tại University of California - Riverside, được đăng trên tạp chí BMC Cell Biology online, ra ngày Thứ Hai vừa rồi.
Khi cơ thể có một vết thương, một số loại tế bào sẽ chạy tới để “băng bó” vết thương đó, giúp cho nó mau lành. Ở những trẻ đã từng bị hít khói thuốc (secondhand smoke), các “tế bào cứu thương” chạy tới nhưng chỉ co cụm lại ở rìa vết thương (do bị đứt, phỏng hoặc nhiễm trùng), làm cho nó chậm lành hơn, và lại có thể tạo ra sẹo (xấu hơn bình thường).
Trưởng nhóm nghiên cứu tuyên bố: “(Bị) Hít khói thuốc gây ra tai hại không những không kém, mà có thể còn tệ hơn là ở chính người hút thuốc”. Nghiên cứu này cũng phát hiện thấy một số liên quan giữa hít khói thuốc với các tác hại trên gan, thận, tim và các động mạch.
Nghiên cứu đã tập trung vào các tế bào được trích ra từ súc vật và người, và khảo sát xem khói thuốc đã tác động thế nào đến các “tế bào cứu thương” (được gọi là) fibroblasts ở trong các dĩa cấy tế bào.
Chúng ta đã từng biết khói thuốc có thể gây ra không những ung thư phổi, mà còn rất nhiều các loại ung thư khác, bệnh tim mạch, loét bao tử, ợ chua, làm trẻ em kém thông minh, bị rối loạn về tập trung, làm đàn ông bị bất lực, vân vân.
Theo Trung Tâm Kiểm Soát Và Phòng Bệnh Hoa Kỳ (CDC), trong năm 2000, có hai trăm ba mươi lăm ngàn người Mỹ đã chết vì khói thuốc lá.
MỘT SỐ NƯỚC GIẢI KHÁT CÓ THỂ CHỨA CÁC CHẤT KÍCH THÍCH NGUY HIỂM
Trong tuần rồi, Cơ Quan Quản Lý Thuốc Và Thức Ăn (FDA) vừa đưa ra một cảnh báo rằng người tiêu thụ không nên dùng một số “nước giải khát” được quảng cáo là sẽ tạo ra sự kích thích một cách hợp pháp (safe legal high). Danh sách này (cho đến nay) gồm tám nhãn hiệu, đã được tìm thấy có các chất kích thích nguy hiểm, bao gồm cả các loại thuốc được dùng để làm cho nạn nhân bị mất trí nhớ để hãm hiếp họ (date-rape drug).
Danh sách các thứ “giải khát” nguy hiểm này gồm có: Trip2Night, Invigorate II, Snuffadelic, Liquid Speed, Solar Water, Orange Butterfly, Schoomz and Green Hornet Liquid.
FDA đã cảnh báo lần đầu vào Tháng Hai về Green Hornet Liquid, sau khi bốn thiếu niên ở Colorado đã bị co giật (kinh phong - seizure), loạn nhịp tim, tăng huyết áp và nổi ban (rash) trầm trọng.
Mặc dù các chai “giải khát” này chỉ nêu một số dược thảo trong thành phần của chúng, các nhà phân tích của FDA đã tìm thấy nhiều chất thuốc kích thích nguy hiểm trong các sản phẩm này. Giám đốc của FDA tuyên bố mọi người, (nhất là các thiếu niên) không nên dùng ngay cả một ngụm nhỏ của các loại sản phẩm này.
Các loại sản phẩm này thường được bán trên Internet hoặc trong các cửa hàng như là một thay thế cho các loại thuốc kích thích bất hợp pháp. Mặc dù hãng sản xuất ra các sản phẩm này đã bị đóng cửa, FDA đưa ra cảnh báo hôm Thứ Sáu vì e rằng một số khách hàng và của tiệm vẫn còn tồn trữ chúng.
“THUỐC GIẢM CÂN” EPHEDRA CHÍNH THỨC BỊ CẤM TRÊN TOÀN QUỐC
Sau mười năm lưu hành, làm cho 155 người chết và nhiều ngàn người khác bị tổn thương, tuần này, cuối cùng Ephedra đã chính thức bị cấm trên toàn Hoa Kỳ.
Ephedra trước đây rất phổ biến như một loại “dược thảo” làm giảm cân, được bán như dược thảo, có trong nhiều loại trà giảm cân.
Từ Tháng Mười Hai, FDA đã cảnh báo người tiêu thụ về sự nguy hiểm của Ephera.
Các loại được lưu hành như các dược thảo, chất phụ trợ cho thực phẩm không được sự kiểm soát chặt chẽ của FDA, và chỉ bị cấm khi có bằng chứng rằng nó đã gây ra tai hại cho người tiêu thụ. Ðây là lần đầu tiên mà một chất phụ trợ cho thực phẩm bị cấm. FDA đã phải qua nhiều năm thưa kiện với các hãng sản xuất các chất này trước khi có thể tuyên bố cấm lưu hành chúng.
NHỮNG NGƯỜI LIỆT SẼ CÓ THỂ CỬ ÐỘNG MỘT NGÀY NÀO ÐÓ
“Phép lạ” này sẽ được thực hiện bằng một con chip điện tử hoạt động như một máy computer rất tối tân nhưng cũng rất nhỏ, được cấy vào vòm sọ của những người bị liệt. Những người bị liệt này sẽ phải học để ra các mệnh lệnh cho máy computer cực nhỏ này bằng các suy nghĩ về hành động mà mình muốn làm. Sau đó, con chip này sẽ phát ra các xung động để kích thích vùng não chịu trách nhiệm kích thích các cơ bắp thực hiện hoạt động đó.
Cho tới nay, người ta đã thực hiện và đạt được một số thành công trong câu chuyện giả tưởng nói trên, nhưng hầu hết chỉ trên khỉ. Trên con người, một số người tham gia nghiên cứu đã làm được một số việc bằng cách phát ra các xung động nhằm điều khiển các computer và robot làm việc mà họ không thể thực hiện được.
Tuần rồi, Công Ty Cyberkinetic Inc. of Foxboro ở tiểu bang Massachusetts, đã được chuẩn thuận của FDA để bắt đầu một nghiên cứu lâm sàng trong đó những con chip điện tử khoảng 4 mili mét vuông sẽ được cấy vào bên dưới vòm sọ của các bệnh nhân bại liệt.
Ðây là một bước rất khởi đầu trong lĩnh vực này. Người ta hy vọng trong vòng ba đến năm năm, sẽ có một kết quả nào đó.
Nếu nghiên cứu trong lĩnh vực này thành công, không biết các con chip loại này có thể được dùng để phát ra các xung động vào vỏ não của người khác để điều khiển họ hay không.
Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng
|
|
|
Post by NHAKHOA on Apr 21, 2009 12:04:59 GMT -5
Thủ phạm gây bệnh ung thư ở khói thuốc lá đã được khám phá Monday, April 20, 2009
CHICAGO , Illinois - Các khoa học gia của ba nước đã khám phá các “thủ phạm” gây bệnh ung thư ở khói thuốc lá, theo kết quả nghiên cứu vừa được trình bày tại Hội nghiên cứu ung thư, trụ sở ở Denver.
Các khoa học gia tìm ra 2 chất trong khói thuốc lá trực tiếp gây bệnh ung thư phổi.
Họ cho biết các phát kiến này có thể giúp báo trước người hút thuốc nào sẽ phát sinh ung thư. Theo công trình nghiên cứu, người hút thuốc nào có nồng độ cao của NNAL (phó sản của nicotine) trong nước tiểu, thì cơ nguy phát bệnh ung thư phổi cao gấp đôi người khác.
Với thành phần có nồng độ cao của NNAL và một phó sản khác của nicotine là cotinine, thì nguy cơ ung thư tăng hơn 8 lần.
Các khám phá trên giải thích tại sao một số người hút thuốc bị ung thư, mà người khác không bị.
Giáo sư Jian-Min Yuan tại trường đại học Minnesota nói, “Hút thuốc đưa tới ung thư, nhưng với 60 loại carcinogen trong khói thuốc lá, càng nhận dạng được nhiều hơn thủ phạm, chúng ta càng tiên đoán chính xác hơn nguy cơ ung thư”.
Tỉ lệ người hút thuốc phát bệnh ung thư trung bình là 10%.
Các nghiên cứu trước đây nhận thấy với con vật thí nghiệm có tỉ lệ NNAL cao thì nguy cơ ung thư phổi cũng cao, nhưng ảnh hưởng với con người chưa được rõ.
Các khoa học gia Hoa Kỳ đã thu thập dữ liệu từ 2 cuộc nghiên cứu lớn của người Trung Quốc, thực hiện với 50,000 người tuổi từ 45 đến 74.
Ngoài việc hỏi thêm số thuốc hút, cách ăn uống và sinh hoạt hàng ngày, các nhà nghiên cứu còn gom góp các mẫu máu và nước tiểu.
Giáo sư Yuan và các đồng nghiệp đã nhận diện được 246 người phát bệnh ung thư và 245 không phát bệnh sau 10 năm theo dõi.
Ðoàn nghiên cứu gồm cả chuyên gia của trường đại học quốc gia Singapore và của Viện Ung Thư Thượng Hải đã chia các đối tượng khảo sát thành 3 bậc nồng độ NNAL trong máu.
Sau khi đếm số điếu thuốc hút một ngày, họ nhận thấy nồng độ trung bình NNAL có liên quan với cơ nguy ung thư cao hơn 43% và nồng độ cao làm tăng gấp đôi cơ nguy ung thư.
Với những người hút thuốc có nồng độ cao cả về NNAL và cotinine, thì nguy cơ ung thư cao gấp 8 lần rưỡi.
Giáo sư Yuan nói: mục tiêu của chúng tôi trong 3 đến 5 năm tới là thu thập thông tin quy mô để có thể dùng làm mẫu trắc nghiệm hầu báo động người hút thuốc về mối đe dọa của ung thư. Ung thư phổi giết 1.2 triệu người hàng năm trên thế giới, và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong các loại ung thư. (reuters-PXB)
|
|
|
Post by NHAKHOA on Dec 21, 2010 15:36:57 GMT -5
Bệnh Tim, Trẻ Hút Thuốc Lá, Viêm Gan B
Bác sĩ Trần Mạnh Ngô Chụp hình Cộng Hưởng Từ Trường đo Xơ Cứng Động Mạch Vành Tim. Bs Suzanne C. Gerretsen và các đồng nghiệp dùng hình ảnh cộng hưởng từ trường (MRI) để sớm truy tầm thay đổi vữa xơ động mạch bệnh động mạch vành tim. Bài này phổ biến trong điện thư PLosOne ngày 29 tháng 9, 2010. Khảo sát 22 bệnh nhân bệnh động mạch vành, và 26 bệnh nhân khoẻ mạnh không có triệu chứng bệnh động mạch vành tim. Kết quả chụp hình MRI thấy bề dầy vành động mạch vành tim, khi bị đau thắt ngực ổn định (stable angina), tăng cao. Những bệnh nhân này chụp hình quang tuyến mạch máu (angiogragraphy) xác định có bệnh động mạch vành tim. Khảo sát bao gồm một số bệnh nhân ở tuổi có thể bị bệnh động mạch vành tim nhưng không có triệu chứng bị bệnh động mạch vành tim. Kết quả chụp hình MRI thấy mặc dầu kiến trúc thành động mạch vành tim thay đổi, nhưng lỗ động mạch vành tim không bị hẹp, không bị co nhỏ. Trong báo New Engl J Med, tháng 12, 2001, lần đầu tiên các chuyên gia Đại Học Y Khoa Harvard đã dùng MRI thử nghiệm chụp hình định bệnh co thắt nhánh động mạch vành tim. Theo các chuyên gia thì độ chính xác là 72%. Và độ chính xác tăng cao hơn khi chụp hình MRI cho bệnh động mạch vành tim bên trái. Máy MRI đo năng lượng độ rung của nhân Hydrogen khi gặp từ trường, chuyển thành hình ảnh. Nguyên tử Hydrogen nằm trong phân tử nước (H2O). Nước nằm trong khắp mô cơ thể con người, kể cả máu. Lượng Hydrogen khác nhau nằm trong cơ thể gây năng lượng khác nhau. Như thay đổi năng lượng Hydrogen trong nước (máu), làm thay đổi hình xám trong máy MRI. Nhờ đó, MRI có thể truy tầm đo lường lượng máu di chuyển trong động mạch vành tim. Bệnh động mạch vành tim là bệnh tim gây tử vong cao nhất ở Mỹ. Động mạch vành tim cung cấp máu cho cơ tim bị cứng và co nhỏ. Những tảng mỡ cholesterol đọng bên trong động mạch vành tim, càng ngày càng nhiều thêm, gọi là bệnh vữa xơ động mạch. Thành động mạch vành tim dầy thêm, máu ít tơí cơ tim, và lượng dưỡng khí nuôi cơ tim giảm thấp. Bệnh nhân động mạch vành tim bị đau ngực hay lên cơn đau tim. Phần lớn cơn đau tim do máu đông trong động mạch vành tim bất thình lình cắt đứt dòng máu tơí cơ tim, làm hư hại cơ tim. Dần dần tim bị suy, và tim đập thất nhịp. Thể dục giảm hút thuốc lá. Trẻ em tập thể dục giàm hút thuốc lá. Bs Stephen Nkansah-Amankra và các đồng nghiệp đăng trong điện báo Journal of Public Health, ngày 14 tháng 10 năm 2010, phân tích trẻ em ở Colorado trong thời gian tập thể dục, tìm hiểu trẻ em thích tham gia tập thể dục hay không. và thói quen trẻ hút thuốc lá. Kết quả cho thấy trẻ em không những không năng động tập thể dục, mà còn hút thuốc lá nhiều hơn. Trẻ em gái ít năng động tập thể dục nhiều hơn trẻ em trai. Các chuyên gia khuyến cáo trẻ em cần tập thể dục nhiều hơn, tập thể dục lâu hơn để giúp giảm tật hút thuốc lá. Chụp Hình MRI não bất bình thường khi hút thuốc lá. Trong một nghiên cứu phổ biến trong báo Psychopharmacology năm 2009, các chuyên gia dùng phương pháp chụp hình cộng hưởng từ trường (MRI) não cho người hút thuốc lá, sau khi tập thể dục. Thí nghiệm cho 10 người ghiền thuốc lá, tập thể dục đạp xe trong 15 phút. Chụp hình ảnh não bằng phương pháp cộng hưởng từ trường cho cả những người tập thể dục và không tập thể dục. Kết quả cho thấy có vết tác dụng bất thường (activity) trong não MRI của người hút thuốc, nhưng vết này đã biến mất sau khi tập thể dục. Người hút thuốc lá cho biết cảm giác thèm muốn hút thuốc lá đã giảm đi sau khi tập thể dục. Nguyên nhân chưa rõ nhưng theo một giả thuyết thì sau khi tập thể dục có lẽ chất dopamine đã tăng cao hơn. Cũng vì vậy mà tinh thần người tập thể dục có vẻ sảng khoái hơn, và đồng thơì cũng giảm tình trạng thèm hút thuốc lá. Giải thích thứ hai cho rằng khi tập thể dục, máu dồn lên não nhiều hơn, làm tan biến hình ảnh tác dụng vào não do hút thuốc. Cần thêm nghiên cứu để làm sáng tỏ vấn đề. Theo Bs Kate Janse Van Rensburg, đồng tác giả trong bài báo này, thì tập thể dục giảm ham muốn hút thuốc lá, có thể hữu hiệu hơn cách dùng thuốc chữa bỏ tật hút thuốc lá. Tập thể dục còn giúp chúng ta khoẻ mạnh, xuống cân, và tinh thần sảng khoái hơn. Sớm Truy Tầm Xơ Gan Viêm Gan B. Trong báo BMC Gastroenteroloy, 10: 115, 2010, Bs Ye Lu và các cộng sự viên cho biết phân tích biểu hiện chất bạch đản Peroxiredoxin 2 (Prx-2) trong huyết tương có thể coi là một dấu ấn sinh học để sớm chẩn định bệnh viêm gan B liên hệ xơ gan. Kết quả dựa theo thử nghiêm huyết tương cho 49 người bình thường và 95 bệnh nhân bị viêm gan B kinh niên từ 2004 tới 2005. Peroxiredoxin là chất bạch đản trong cơ thể con người mã hoá từ di thể PRDX2, thuộc phân hoá tố chống oxýt hoá, khử hydrogen peroxide và alkyl hydroperoxides. Peroxiredoxin liên hệ bành trướng và diễn tiến ung thư. Bs Trần mạnh Ngô
|
|