Phần 2
Trị liệu pháp của Lãn Ông so sánh với trị liệu pháp của ít nhiều danh y Trung Hoa [12]
Nói đến trị liệu pháp (thérapeutique, principes thérapeutiques), tức là đề cập đến một vấn đề hết sức bao quát của y học. Vì thế, trong khuôn khổ một bài báo chúng ta không thể nào đi vào được hết các chi tiết. Chúng ta chỉ có thể phác họa ít nhiều nét đại cương, ít nhiều đường lối chính yếu của các danh y, ngõ hầu soi sáng cho chúng ta một phần nào trên con đường khảo sát Đông y. Chính vì thế mà trước hết xin quý vị lượng thứ cho sự sơ lược của bài này.
A. TRỊ LIỆU PHÁP CỦA ÍT NHIỀU DANH Y TRUNG HOA
1. Trước hết, tưởng cũng nên nhắc lại rằng Đông y đã được xây nền đắp tảng trên bộ Nội Kinh.
Nội Kinh gồm hai quyển:
- Tố Vấn gồm 81 chương.
- Linh Khu gồm 81 chương, nói về châm cứu.
Tuy sách như là thuật lại lời đàm thoại giữa Hoàng Đế (2696-2598 tcn) với Kỳ Bá, nhưng có lẽ sách chỉ được viết ra khoảng 1000 năm trước công nguyên. Có người lại cho rằng bộ Nội Kinh được viết khoảng thế kỷ 4 tcn.[13]
Bộ Nội Kinh cho chúng ta các khái niệm về cơ thể học, bệnh lý học, và trị liệu pháp (thérapeutique).
Về phương diện bệnh lý học (pathogénie) chẳng hạn, Nội Kinh đã chia nguyên nhân sinh bệnh thành hai loại:
a. Ngoại cảm, do lục dâm: phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa.
b. Nội thương, do sự thương tổn của khí huyết, tạng phủ, Âm Dương, gây ra bởi:
- Thương thực.
- Lao lực.
- Sắc dục.
- Thất tình (hỉ, nộ, ưu, tư, bi, kinh, khủng).[14]
Tuy nhiên Nội Kinh không đưa ra một phương thuốc nào nhất định và chỉ chuyên chú về châm cứu.
2. Đời nhà Chu, ta còn thấy hai triết thuyết về bệnh lý:
- Triết thuyết thứ nhất cho rằng bệnh tật sinh ra là do nhị khí Âm Dương trong người không được điều hòa.
- Triết thuyết thứ hai cho rằng bệnh tật sinh ra do ngũ hành trong người không được quân bình.
Tuy nhiên, trước đời nhà Hán (thế kỷ 2 tcn) thì phương pháp trị liệu nằm gọn trong các khoa:
- Châm (acupuncture).
- Cứu (moxa).
- Án ma (kinésithérapie, massage).
3. Mãi đến đời Hán, Trương Trọng Cảnh (đỗ tiến sĩ năm 163 đời Hán Linh Đế) mới mở một tân kỷ nguyên cho nền y học Trung Hoa.
Ông khảo sát các bệnh theo bệnh trạng (manifestations cliniques) tìm căn do bệnh tật, định phương pháp trị liệu bằng thuốc men. Ông viết hai quyển về y học là:
- Thương Hàn luận.
- Kim quỹ.
Trương Trọng Cảnh chủ trương rằng tà khí xâm nhập vào cơ thể con người do 6 Kinh từ ngoài vào trong (từ biểu vào lý) theo thứ tự sau đây:
(1) Thái Dương kinh (Thủ thái dương, Tiểu tràng kinh, Túc thái dương, Bàng quang kinh)
(2) Dương Minh kinh (Thủ dương minh, Đại tràng kinh, Túc dương minh, Vị kinh)
(3) Thiếu Dương kinh (Thủ thiếu dương, Tam tiêu kinh, Túc thiếu dương, Đởm kinh)
(4) Thái Âm kinh (Thủ thái âm, Phế kinh, Túc thái âm, Tì kinh)
(5) Thiếu Âm kinh (Thủ thiếu âm, Tâm kinh, Túc thiếu âm, Thận kinh)
(6) Quyết Âm kinh (Thủ quyết âm, Tâm bào lạc kinh, Túc quyết âm, Can kinh)
Tổng quát mà nói:
* Bệnh ở kinh Dương, thuộc Dương, Biểu (ngoài), Nhiệt và Thực, cho nên có thể dùng những thuốc:
- Công, như phát hãn (làm cho ra mồ hôi) hoặc bằng bài Ma hoàng thang[15] hoặc Quế chi thang[16] (bệnh ở Thái Dương kinh).
- Hạ (cho đi xông) bằng bài Thừa khí thang[17] (bệnh ở Dương minh kinh).
- Hoặc Hòa hoãn bằng bài Tiển sài hồ thang[18] (bệnh ở Thiếu Dương kinh).
* Bệnh ở các kinh Âm thuộc Âm, Lý (bên trong), Hàn và Hư, vì thế phải dùng thuốc Ôn bổ như:
- Tứ nghịch thang (tăng sức nóng)(bệnh ở Thiếu Âm kinh).[19]
- Lý trung thang (bệnh ở Thái Âm kinh).[20]
- Đương qui tứ nghịch thang (bệnh ở Quyết Âm kinh).[21]
Trương Trọng Cảnh được coi là một vị thánh y của Trung Quốc. Ông đã để lại 113 phương (ordonnances magistrales) và 397 y án (schémas de traitement).
Trần Tu Viên (khoảng 1803), trong thiên Cổ kim y luận, cho rằng Trương Trọng Cảnh đã biết mọi phương pháp chữa bệnh:
- Công (médication agressive)
- Bổ (médication tonique)
- Ôn (médication réchauffante)
- Lương (médication rafraîchissante)
Lại biết:
- Tiên công hậu bổ.
- Tiên bổ hậu công.
- Hàn nhiệt kiêm thi.
- Công bổ tịnh dụng, v.v.
Mọi lương y sau này chỉ khai thác được một khía cạnh nào đó của Trương Trọng Cảnh mà thôi.
4. Sau Trương Trọng Cảnh, bẵng đi một thời gian khá lâu, không ai đưa ra được một chủ xướng gì mới mẻ. Mãi đến đời nhà Kim, Nguyên (1206-1368) mới thấy có những danh y xuất hiện, đưa ra những chủ xướng mới mẻ. Đời Kim Nguyên có 4 danh y mà đời sau gọi là Kim Nguyên tứ đại gia [22] hay «Trương, Lưu, Lý, Chu, tứ tử». Đó là:
- Lưu Hoàn Tố, t71c Thủ Chân (giữa khoảng 1115-1260).
- Trương Tông Chính, tức Trương Tử Hòa (1155-1260)
- Lý Cảo, tức Lý Đông Viên (1179-1251)
- Chu Chấn Hanh, tức Chu Đơn Khê (1281-1358)[23]
a. Lưu Hoàn Tố, tự Thủ Chân (giữa khoảng 1115-1260).
Lưu Hoàn Tố chủ trương rằng các bệnh sinh ra trong người vì Nhiệt thịnh. Vì thế ông chủ trương dùng các vị thuốc hàn lương. Ngoài ra ông cũng dùng các loại thuốc:
- Thổ (vomitifs)
- Hạ (laxatifs ou purgatifs)
- Hãn (diaphorétiques)
Lưu Thủ Chân còn chủ trương rằng Âm Dương, Ngũ hành , Ngũ vận là nguyên nhân sinh ra bệnh tật.
Sau này Trương Giới Tân (1563-1640) đã đả kích Lưu Thủ Chân và cho rằng các môn thuốc hàn lương của ông chỉ có ích cho những người Trung Hoa ở phương Bắc, khoẻ mạnh, chứ không thích hợp những người Trung Hoa ở phương Nam, yếu hơn.[24]
b. Trương Tòng Chính, tự Tử Hòa (1155-1260).
Trương Tử Hòa chủ trương rằng các bệnh sinh ra là do tà khí bên ngoài đột nhập vào cơ thể, nên cần phải trừ khử bằng các thuốc công, hạ (médication diaphorétique, émétissantes, purgatives, laxatives). Ông đặc biệt ưa dùng thuốc hạ (purgatifs).
c. Lý Cảo, tự Đông Chi, hiệu Đông Viên (1179-1251)
Lý Đông Viên cho rằng các bệnh sinh ra là do sự mất quân bình giữa Tì (-) và Vị (+); Vì thế, ông chuyên môn bổ Tì. Chính ông đã sáng chế bài Bổ trung ích khí thang.
d. Chu Đơn Khê, tự Ngạn Tu, hiệu Chấn Hanh (1281-1358)
Chu Đơn Khê chủ trương rằng các bệnh sinh ra là do ăn uống thiếu chất bổ dưỡng. Ông lại cho rằng trong người Âm thường bất túc, Dương thường hữu dư. Vì thế ông chuyên bổ Âm.
5. Đến đời Minh (1368-1644), ta lại thấy y học chia ra thành nhiều phái:
a. Công hạ phái. Phái này chủ trương như Trương Tử Hòa xưa rằng nên dùng các loại thuốc công, hạ.
b. Dưỡng Âm phái. Phái này theo chủ thuyết của Chu Đơn Khê, dùng các thuốc bổ âm.
c. Ôn bổ phái. Phái này do các lý thuyết gia sau đây lãnh đạo:
- Tiết Dĩ, tự Lập Trai (khoảng 1500-1560)
- Trương Giới Tân, tự Huệ Khanh, hiệu Cảnh Nhạc (1563-1640)
Ôn bổ phái chủ trương: Dương khí trong người chính là sinh khí, khó được và dễ mất, vì thế phải dùng thuốc ôn bổ để dưỡng Dương kh, chứ không được dùng những thuốc hàn, lương.
Tóm lại ta thấy các danh y Trung Hoa:
a. Người thì lưu tâm đến tà khí và chỉ chuyên dùng thuốc công, hạ để trừ khử.
b. Người thì lưu tâm đến cơ thể con người, và cho rằng các bệnh sinh ra là do Âm Dương nhị khí không điều hòa, hoặc Tì, Vị mất quân bình cho nên:
- Hoặc chủ trương bổ Âm (bổ thận thủy, bổ huyết)
- Hoặc chủ trương bổ Dương (bổ thận hỏa, bổ khí)
- Hoặc chủ trương bổ Tì.
Vì thế đã có nhiều người tóm tắt trị liệu pháp của Trung Hoa bằng bốn chữ Công, Lương, Ôn, Bổ.
B. TRỊ LIỆU PHÁP CỦA LÃN ÔNG
Những nguyên tắc trị liệu của Lãn Ông hết sức sáng suốt và vững vàng. Trong quyển Y hải cầu nguyên nơi chương Hư Thực, ông viết đại khái như sau:
«Các bệnh nội thương càng ngày càng tăng, vì phong hóa suy đồi, tiết khí trở nên ô trọc hơn. Con người bị ảnh hưởng ngoại cảnh, càng ngày càng trở nên yếu đuối.
«Vì thế thời cổ người ta dùng các bài thuốc công phạt như Ma hoàng, Thừa khí.
«Thời trung cổ, người ta đổi phương lược, và dùng những thuốc vừa bổ vừa tả như Sâm tô thang, Nhân sâm bại độc tán.
«Sau này, Lý Đông Viên lại sáng chế ra các bài:
- Bổ trung ích khí
- Nhân sâm dưỡng vinh thang, chỉ gồm toàn vị bổ.
«Các cách trị liệu ấy, theo đà thời gian, đều có kết quả, chứng tỏ rằng cơ thể con người ngày một suy yếu hơn.
«Cho nên ngày nay những thuốc công, hạ ít được dùng, trái lại, các thuốc ôn bổ ngày một được dùng nhiều hơn.» [25]
Tuy nhiên các bệnh do ngoại thương, ngoại cảm. các bệnh thực chứng không phải là không có.
Như vậy phải có những tiêu chuẩn chính xác để phân biệt thực chứng do ngoại cảm với hư chứng do nội thương, để mà tùy nghi tả (trong trường hợp thực chứng) hay bổ (trong trường hợp hư chứng).
Lãn Ông cho ba tiêu chuẩn sau đây:
+ Xem tạng người bệnh nhân mạnh yếu ra sao.
+ Xem mạch mạnh yếu ra sao.
+ Xem bệnh diễn biến ra sao.
1. Xem tạng người bệnh nhân mạnh yếu ra sao.
Lãn Ông viết trong Châu Ngọc Cách Ngôn như sau:
«Quan hình dĩ bẩm nhược bẩm cường, xác kỳ vi hư vi thực nhi trị.» (Xem hình sắc để nhận biết người yếu hay người mạnh, để xác định là hư chứng hay thực chứng mà trị.)
Ông bình tiếp:
«Những người bẩm thụ phong hậu, tuổi trẻ, sức mạnh, khí huyết đầy đủ, xương thịt cân xứng, nếu lỡ có đau yếu thì nên lấy thực chứng mà trị.
«Những người bẩm thụ sơ bạc, tuổi già sức yếu, người mắc bệnh nặng, người đau yếu lâu ngày hay đàn bà sản hậu và người tuổi đã nhiều mà còn đẻ, nếu bị cảm thương, trước sau nhất thiết cứ theo hư chứng mà trị.
«Sách Nội Kinh viết rằng: ‘Việc trị liệu, trước nên xét về nguyên khí làm chủ đã, rồi sau mới tìm đến bệnh tật, ý nghĩa ấy thật sâu xa’.»[26]
2. Xem mạch mạnh yếu ra sao.
Lãn Ông viết trong Châu Ngọc Cách Ngôn:
«Sát mạch dĩ hữu lực vô lực, minh ư khả bổ khả tả chi cơ.» (Xét mạch để nhận biết hữu lực, vô lực mà quyết định là nên bổ hay nên tả cho rõ.)
Ông bình tiếp:
«Trong sách Mạch yếu quyết của Dụ Gia Ngôn nói rằng không cần phải hỏi là mạch phù hay trầm, mạch đại hay tiểu ở bộ nào, chỉ thấy cứ trọng án đến tận xương mà còn thấy hữu lực, hữu thần, là «thực»; nếu vô lực, vô thần, là «hư».
«Ta mới xem qua câu sách ấy, tưởng nói như vậy thì sơ lược, thiển cận quá; nhưng từng thí nghiệm mỗi khi xét mạch, mà có sự nghi ngờ là hư hay thực, rồi chiêm nghiệm lời dạy trên, thì thực chả sai một mảy may. Lời dạy của bậc Tiền triết thực là đúng.» [27]
Ta có thể dịch hai câu:
«Quan hình dĩ bẩm nhược bẩm cường, xác kỳ vi hư vi thực nhi trị.» và «Sát mạch dĩ hữu lực vô lực, minh ư khả bổ khả tả chi cơ.» thành mấy câu lục bát như sau:
«Xem người mạnh yếu ra sao,
Bệnh hư, bệnh thực lẽ nào chẳng phân.
Mạch tùy mạnh yếu chuyển vần,
Tức thì tả bổ sẽ lần ra ngay.»
3. Xem bệnh diễn biến ra sao.
a. Những thực bệnh do ngoại cảm, thường bạo phát, nhưng bạo biến.
b. Những «hư chứng» do nội thương, thường phát hiện một cách chậm chạp, nhưng lại dai dẳng, khó hết.
c. Những bệnh mới mắc hoặc do ngoại cảm, hoặc do nội thương.
d. Những bệnh kinh niên chắc chắn là do nội thương.[28]
Khi đã định được là hư chứng rồi, thì Lãn Ông lại nhận định thêm như sau:
* Bệnh nhẹ mới mắc là do:
- Khí hư, chữa bằng bài Tứ quân.[29]
- Hoặc huyết hư, chữa bằng bài Tứ vật.[30]
* Bệnh mắc đã lâu ngày, hoặc là kỳ bệnh, quái bệnh, là do:
- Hỏa hư, sẽ chữa bằng Bát vị.[31]
- Thủy hư, sẽ chữa bằng Lục vị.[32]
Lãn Ông viết trong Châu Ngọc Cách Ngôn:
«Phàm những bệnh đã thuộc hư chứng (khí huyết đều suy yếu), mà những chứng bệnh lặt vặt ở ngoài nó nhiều như ong vỡ tổ (ví dụ: nào là ho, đau đầu, chóng mặt, nào là đau lưng mỏi gối, nào là đau bụng đau răng, ôi đủ thứ). Nhưng nhất thiết không tìm tòi quanh quẩn chi li, mà thấy đâu trị đó, chẳng hạn thấy đau đầu thì trị đau đầu; thấy đau chân thì trị đau chân, v.v. Chỉ cần tìm căn bản mà trị, hễ cái cây mà vun đắp được thì cành lá tốt tươi; hễ cái bệnh gốc mà trị được, thì các bệnh ngọn tự nhiên hết.
«Sách Nội Kinh rằng: ‘Trị kỳ nhất, tắc bách bệnh tiêu; trị kỳ dư tắc đầu tự loạn.’(trị mỗi bệnh gốc thì trăm bệnh khác tiêu; nếu trị bệnh dư thừa, thì đầu mối rối beng). Cho nên những hư chứng vừa vừa thì trách cứ vào khí huyết hữu hình ở hậu thiên mà trị; những chứng đã hư nhiều, thì tìm vào thủy hỏa vô hình ở tiên thiên mà trị.
«Sách Nội Kinh rằng: ‘Tiểu bệnh tất do khí huyết chi sở thương, đại bệnh tất cầu thủy hỏa chi vi hại.’ (những bệnh nhỏ hẳn do khí huyết làm đau, những bệnh lớn hẳn do thủy hỏa làm hại.) Như vậy trị bệnh nhỏ mà bỏ khí huyết không trị; trị bệnh lớn mà bỏ thủy hỏa không trị, lại đi tìm những bệnh lặt vặt mà trị, thật là kẻ leo lên cây mà kiếm cá, làm sao có cá được?» [33]
Ngoài ra, ta cũng thấy rằng Lãn Ông chủ trương cần phải lưu tâm đến sự suy yếu dần dà của cơ thể con người theo đà thời gian; đến những điều kiện địa dư, hoàn cảnh xã hội, những sự khác biệt về sự phản ứng của mỗi một người và vì thế không được nhắm mắt dùng những phương thuốc cho bệnh nhân mọi loại, bất phân khoẻ yếu, mà cần phải biết biến chế gia giảm.[34]
Lãn Ông ưa dùng hai phương thuốc Bát vị và Lục vị và đã dùng hai phương ấy để chữa nhiều bệnh khác nhau.
Sở dĩ được như vậy vì Lãn Ông đã biết chế biến, gia giảm, làm cho hai phương thuốc ấy trở nên biến hóa, linh động vô cùng.
Nói thế tức là Lãn Ông đã không dùng thuốc một cách trần trần cố định, mà biết tùy nghi biến chế để cho thuốc xứng với bệnh, thuốc xứng với người. Phùng thị gọi thế là hoạt pháp.[35]
KẾT LUẬN
Sánh trị liệu pháp của Lãn Ông với trị liệu pháp của các danh y Trung Hoa ta thấy Lãn Ông đã lãnh hội được chỗ vi diệu của y lý Trung Hoa, nên đã có những chủ xướng hết sức độc đáo, những sáng kiến riêng tư, không chịu lệ thuộc vào những khuôn khổ cố định của tiền nhân. Như thế mới gọi là biết làm thuốc.
Cuối cùng xin mạn phép kết bài này bằng một câu Nội Kinh: «Tri yếu giả, nhất ngôn nhi chung; bất tri yếu giả, lưu tán vô cùng.»
Dịch:
Biết thời một chữ là xong,
Không rành yếu chỉ, lung tung tán loàn.[36]
CHÚ THÍCH
[1] Đã đăng tạp chí Phương Đông, số 17, tháng 11-1972, chủ đề Y Lý Đông Phương. - Bài này phỏng theo chương Étude critique du livre «Les Secrets des Reins révélés» trong Les Secrets des Reins révélés, luận án y khoa của tác giả, đệ trình tại Y Khoa Đại Học Đường Hà Nội, tháng 12-1952.
Luận án này đã được giải thưởng luận án năm ấy, và đã được giáo sư Pierre Huard toát lược và phê bình trong quyển Bibliographie - Études historiques sur l’ancienne médicine au Vietnam et en Chine (B.S.E.I., N.S., Tome XXX, No2, 2è trimestre 1955, tr.180-181) và đề cập đến nhiều lần trong các sách khác như: Lãn Ông et la Médicine Sino-vietnamienne (B.S.E.I., N.S., Tome XXVIII, No, 3è trimestre 1953, tr.224), và P.Huard et Wong Ming, La Médicine chinoise au cours des siècles, Les Éditions Roger Dacosta Paris, 1959, tr.113.
Gần đây, BS Hồ Chung Tú, trong quyển luận án của ông, nhan đề là Tư Tưởng và Sự Nghiệp của Lãn Ông (15-8-1971) cũng đã trích dịch đoạn dài để cho vào luận án của ông, từ tr.76 đến tr.101.
[2] Phùng thị Cẩm Nang, q. 1, tr.47: Bình Triệu thị Y Quán thuyết.
[3] Lãn Ông, Huyền Tẫn Phát Vi, tr.3-9.
[4] Xem Phùng thị Cẩm Nang, mộc bản, q.2, tr.3b.
Hải Thượng Lãn Ông, Huyền Tẫn Phát Vi, tr.5b.
[5] Xem Huyền Tẫn Phát Vi, tr.5b và 6a.
[6] Vô Dương tắc Âm vô dĩ sinh, vô Âm tắc Dương vô dĩ hóa (Châu Ngọc Cách Ngôn, tr.15a) - Bổ thủy chế Dương quang, bổ hỏa dĩ tiêu Âm ế…
[7] Những chữ Principe thermique và Principe aqueux là do tôi sáng tạo khi làm luận án để dịch những chữ Chân hỏa, Chân thủy.
[8] Cách xếp 8 vị trên theo hình quẻ Khảm đã được thấy trong P.Huard và Wong Ming, Bibliographie de la Médicine chinoise (B.S.E.I., N.S., Tome XXXI, No3, 1956, tr.2). Ta cũng có thể phân chia như sau: (1) Bổ hỏa: Quế, Phụ. (2) Bổ thủy: Thục địa, Sơn thù. (3) Bổ tì: Hoài sơn, Phục linh. (4) Thanh nhiệt: Đơn bì. (5) Tả: Trạch tả.
[9] Xem Nguyễn Văn Thọ, Les Secrets des Reins rélévés, luận án, tr.125.
- Guyton, Textbook of Medical Physiology, Saunders, 1963, chương 74, từ tr. 99 trở đi.
[10] Xem Bradley M. Patten, Human Embryology, 1948, tr.74.
[11] «Corrigé par une longue pratique médicale, la thèse de Lãn Ông, brillamment exposé par M. Thọ, retient l’attention, même lorsqu’il assimile les 3 éléments de la «Porte de Vie» (thermique, aqueux, et sexuel) aux 3 zones historiques (fasciculée, réticulée et glomérulée) de la surrénale et lorsqu’il établit une comparaison avec le syndrome d’adaptation de Seylie. Elle joue sur la pathogénie chinoise des maladies attribuées soit à des influences externes, soit à des perturbation internes. Bien que nous soyons là en présence d’une extrapolation de la pensée sino-vietnamienne, on doit savoir gré à l’auteur de son énorme effort et de son désir louable de jeter des ponts entre la médicine extrême-orientale et de la médicine extrême-occidentale.»
Pierre Huard, Bibliographie - Études historiques sur l’ancienne médicine au Vietnam et en Chine (B.S.E.I., N.S., Tome XXX, No2, 2è trimestre 1955, tr.181)
[12] Đã đăng tạp chí Phương Đông, số 18, tháng 12-1972, chủ dề Y Lý Đông Phương.
[13] P.Huard và Wong Ming, Bibliographie de la Médicine chinoise (B.S.E.I. N.S., Tome XXXI, No3, 3e trim. 1956.
Bị chú: Trong bài này xin miễn bàn về những vấn đề thông thường như: Hư thực, Hàn nhiệt, Biểu lý, Thủy hỏa, v.v. cũng như không bàn về các phương pháp trị liệu khái quát như: bổ (toniques), hãn (diaphorétiques), hạ (laxatfs, purgatifs), hòa giải (régulateurs), thanh (dépuratifs, refraichissants), ôn (réchauffants), thấm (diurétiques), thổ (vomitifs), tiêu (dissolvants), cố sáp (astringents), trấn (tranquillisants), v.v.
[14] Bách bệnh lập danh tuy phiền, nhiên bất việt Âm Dương, ngũ hành sinh khắc, lục dâm, thất tình, ngũ hỏa dữ ẩm thực, lao quyện tương hiệp truyền biến nhi dĩ. Kinh sở vị: Tri kỳ yếu giả nhất ngôn nhi chung; bất tri kỳ yếu, lưu tán vô cùng giả thử nhĩ.
Phùng thị Cẩm Nang, q.2, chương Thất tình luận, tr.34a.
… Như vậy thất tình đây không phải «Ai, cụ, hỉ, nộ, ái, ố, dục» như ta thường hiểu. Xem Phùng thị Cẩm Nang, q.2, chương Thất tình luận, tr.33b và xem P.Huard et M. Durand, Lãn Ông et la Médicine Sino-vietnamienne (B.S.E.I., N.S., Tome XXVIII, No, 3è trim.1953, tr.47)
[15] Ma hoàng thang: trị thương hàn. Thái dương chứng, tà còn ở ngoài, phát nóng, nhức đầu, mình mẩy thắt lưng và khớp xương đau; cổ cứng, sợ gió, sợ lạnh, không mồ hôi, khò khè, mạch khẩn. Ma hoàng (3 lượng), Quế chi (2 lượng), Hạnh nhân (20 hạt), Chích cam thảo (1 lượng). (Các bài thuốc và lời bình rút trong: Phạm Văn Điều, Đông Y Dược Học Khóa Toát Yếu)
[16] Quế chi thang: Trị Thái dương, trúng phong, Dương phù Âm nhược, phát nóng, nhức đầu, ghét gió, ghét lạnh, nhảy mũi, oẹ khan. Quế chi, Thược dược, Sinh khương (mỗi thứ 3 lượng); Chích cam thảo (2 lượng); Đại táo (12 trái). Uống nóng sau đó ăn cháo nóng, ra mồ hôi thì thôi; chưa ra mồ hôi thì cho uống thêm.
[17] Thừa khí thang (thuốc xổ): Trị bệnh thương hàn, Dương minh chứng, bao tử đầy, táo bón, phát nóng, nói sảng, mồ hôi râm rấp, no đầy, buứt rứt. -- Có 2 bài: Đại thừa khí và Tiểu thừa khí. Đại thừa khí: Đại hoàng tẩm rượu (5 chỉ), Mang tiêu (4 chỉ), Hậu phác (3 chỉ), Chỉ thiệt (3 chỉ). Nấu Hậu phác và Chỉ thiệt trước, sau cho Đại hoàng; khi rót xuống trộn mang tiêu. Tiểu thừa khí: Chỉ có Đại hoàng, Chỉ thiệt, Hậu phác.
[18] Tiển sài hồ thang: Có tính hoãn trị rét mới phát, hoặc thương hàn, ... kinh, Thiếu Dương. Sài hồ (8 chỉ), …Nhân sâm, Cam thảo, Hoàng Cầm, mỗi … thêm gừng táo. (các chỗ … là bị mất chữ trong bản photo)
[19] Tứ nghịch thang: trị thương hàn thuộc tam âm, mình đau, bụng đau, đại tiện nguyên đồ ăn, ghét lạnh, không nóng, […] lạnh ngắt, hoặc không ghét lạnh mà bứt rứt, trong lạnh ngoài nóng, hoặc ói mửa, cổ đau, mạch trầm, vi tế, sắp tuyệt. - Phụ tử sống (1 củ), Càn khương (1 […] ), Chích cam thảo (2 lượng). Nấu cho uống. (ghi chú: các chỗ […] là bị mất chữ trong bản in)
[20] Lý trung thang: Trị thương hàn, Thái âm, tiêu chảy, không khát, […] đau bụng, mạch trầm, không sức, chân tay móp, co quắp, tức ngực, nghẹn, ói ra […] - Bạch truật (sao với đất vách cũ) (2 […] ), Nhân sâm, Càn khương (sao vàng), Cho mỗi vị 1 lượng, tán nhuyễn, cho uống tiếp 4 chỉ.
[21] Đương qui tứ nghịch thang: Trị thương hàn Quyết Âm, chân tay lạnh, mạch nhỏ, sắp tuyệt.- Đương qui ( […] ), Bạch thược, Tế tân mỗi vị 3 lượng, Cam thảo, Thông thảo mỗi vị 2 lượng, Táo (25 trái). Nấu cho uống nhiều […] nhiều thang.
Bị chú: Dĩ nhiên, đây chúng ta chỉ […] sơ lược một vài phương thang của Trọng Cảnh. Thực ra ông có hơn 100 thang. Đọc thêm: Trần Tu Viên, Thương […] phương thang ca quyết. Đỗ Đình Tuân, Đông Y lược khảo […] (chương Lục kinh chính bệnh, tr. […] ). Phạm văn Điều, Đông y dược học khảo yếu, các tr. 252, 254, 262, 279. (ghi chú: các chỗ […] là bị mất chữ trong bản in)
[22] P. Huard, Bibliographie de la Médicine chinoise, p.186. No 50.
[23] Ibid. pp.199-200
[24] P. Huard et Wong, Bio-Bibliographie de la Médicine chinoise, p.191.
[25] Xem Y hải cầu nguyên, chương Hư Thực, tr.36.
[26] Xem Châu Ngọc Cách Ngôn, q.thượng, tr.6b, 7a. Trích: bản dịch Châu Ngọc Cách Ngôn của cụ Định Ninh Lê Đức Thiếp (bản đánh máy), tr.24.
[27] Xem Châu Ngọc Cách Ngôn, q.thượng, tr.6a và 7b. Xem bản dịch Châu Ngọc Cách Ngôn của cụ Định Ninh Lê Đức Thiếp (bản đánh máy), tr.24.
[28] Xem Y hải cầu nguyên, chương Âm Dương, tr.8 và chương Tri Tắc, tr.22.
[29] Tứ quân thang: Nhân sâm, Bạch truật (mỗi thứ 2 chỉ), Bạch linh (3 chỉ), Cam thảo (2 chỉ).
[30] Tứ vật thang: Thục địa (2 chỉ), Đương qui, Bạch thược (mỗi thứ 1 chỉ), Xuyên khung (1 chỉ).
[31] Bát vị: Quế, Phụ, Đơn bì, Hoài sơn, Sơn thù, Phục linh, Trạch tả, Thục địa.
[32] Lục vị: Bài Bát vị bỏ Quế, Phụ.
[33] Xem Châu Ngọc Cách Ngôn, q.hạ, tr.22b. Xem bản dịch Châu Ngọc Cách Ngôn của cụ Định Ninh Lê Đức Thiếp (bản đánh máy), tr.57.
[34] Chính vì thế mà Lãn Ông không dùng Ma hoàng thang và Quế chi thang của Trọng Cảnh. Xem P.Huard et M. Durand, Lãn Ông et la Médicine Sino-vietnamienne, p.225.
[35] Nại hà cận y xả chí linh chí biến chi lý, nhi chấp bất linh bất biến chi thành phương. Thị dĩ Tố vấn vô phương , Nạn Kinh vô phương; phi vô phương dã; vi phương hoạt pháp dã. Hán thế tài hữu phương ư phỏng dã. Phùng thị Cẩm Nang, q.1, tr.43b
[36] Phùng thị Cẩm Nang, q.2, chương Thất tình luận, tr.34a.
Bị Chú: Bài này hầu hết được trích ra từ chương Parallèle entre Lãn Ông et les auteurs chinoises từ tr.103 đến 109 trong luận án Y khoa bác sĩ của tác giả, nhan đề là Les Secrets des Reins révélés, luận án y khoa của tác giả, đệ trình tại Y Khoa Đại Học Đường Hà Nội, tháng 12-1952. Luận án này đã được giáo sư Pierre Huard nhiều lần đề cập tới cũng như toát lược và phê bình. Xin đọc:
- Pierre Huard et M.Durand, La Médicine Sino-vietnamienne (B.S.E.I., N.S., Tome XXVIII, No, 3è trimestre 1953, tr.224-240)
- Pierre Huard, Bibliographie - Études historiques sur l’ancienne médicine au Vietnam et en Chine (B.S.E.I., N.S., Tome XXX, No2, 2è trimestre 1955)
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720 ? - 1791)
Tiểu sử Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác
Hải Thượng Lãn Ông là tên hiệu của Lê Hữu Trác (còn có tên là Lê Hữu Huân), một nho gia và danh y Việt Nam vào cuối đời Hậu Lê. Ông sinh năm 1720 (?), người xã Liêu xá, huyện Đường Hào, trấn Hải Dương (nay thuộc phủ Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Về năm sinh của ông, các sách ghi không thống nhất: Gia phả ghi ngày 12 tháng 11 năm Giáp Thìn (tức 27-12-1724). Các tài liệu khác thì chép năm sinh là 1720 hay 1721.
Ông thuộc một gia đình có nhiều đời đỗ đạt. Cha và chú đều đỗ tiến sĩ và làm quan đến đại thần. Lúc còn trẻ, ông đã nổi tiếng hay chữ. Đến năm 20 tuổi, ông xếp bút nghiên để tòng quân. Đang ở trong quân ngũ, ông phải về quê ngoại là xã Tình Diễm, huyện Hương Sơn, trấn Nghệ An (nay là tỉnh Hà Tĩnh) để phụng dưỡng mẹ già. Tại Hương Sơn, ông nghiên cứu y học, trở thành một y sư danh tiếng. Ông mở trường dạy học và trước tác bộ sách y khoa đồ sộ Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh. Năm 1782, ông được quan Chính Đường (Huy Quận Công Hoàng Đình Bảo) tiến cử lên kinh đô chữa bệnh cho Thế Tử Trịnh Cán (con chúa Trịnh Sâm và Tuyên Phi Đặng Thị Huệ). Tuy việc chữa bệnh không thành, ông đã phải ở kinh đô trong khoảng một năm. Sau khi về Hương Sơn, ông ghi lại những điều mắt thấy tai nghe tại kinh đô trong tác phẩm Thượng Kinh Ký Sự.
Bộ Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh gồm 66 quyển, biên soạn trong 40 năm, là bộ bách khoa thư về y học của Việt Nam vào thế kỷ XVIII. Ngoài giá trị khoa học, bộ y điển này còn có giá trị văn học đáng kể. Y huấn cách ngôn của ông là 9 câu cách ngôn về y đức, thể hiện tấm lòng cao cả của một thầy thuốc. Y dương án và Y âm án là hai tập bệnh án, nhưng đồng thời chúng đã toát lên những sinh hoạt của xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII. Bên cạnh đó, tập bút ký Thượng Kinh Ký Sự đã mô tả hiện thực đời sống tại kinh đô thời bấy giờ.
Tham khảo: Từ điển Văn Học, tập I, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1983, tr.382-383