|
Post by NHAKHOA on Apr 13, 2009 10:31:51 GMT -5
Nhiếp Tuyến, Tuyến Tiền Liệt hoặc Nhiếp Hộ Tuyến là một tuyến sinh dục phụ của nam giới. Mang danh là TUYẾN nhưng nó không tiết ra kích thích tố như các tuyến khác, không trực tiếp khích lệ sự giao hoan, nhưng góp phần quan trọng vào sự nối dõi tông đường và tột đỉnh của cảm khoái tình dục. Tuyến cung cấp một ít chất lỏng kiềm tính để cùng Túi Tinh sản xuất tinh dịch. Mà tinh dịch lại rất cần thiết cho sự sinh tồn và di chuyển của cả dăm ba trăm triệu chú tinh trùng trong mỗi lần giao hợp, xuất tinh. Tinh trùng do ngọc hành sản xuất. Tinh dịch có đường “fructose” để cung cấp năng lượng cho tinh trùng; có “prostaglandins” kích thích tử cung co bóp, giúp tinh trùng di chuyển tìm kiếm Noãn Tiên Nữ; trung hòa “acid tính” nước âm hộ để bảo vệ tinh tử. Chức năng này lại chịu sự chi phối của kích thích tố “testosteron” và kích thước lớn nhỏ của nhiếp tuyến cũng lại do kích thích tố này quyết định một phần nào. Trong trạng thái lành mạnh, bình thường, nhiếp tuyến to bằng trái hạt dẻ, sờ vào thấy mềm mềm. Tuyến nằm dưới bàng quang, bao quanh niệu quản dẫn nước tiểu ra ngoài cơ thể. Tuyến cũng nằm ở mặt trước của trực tràng, nên khi lang y cho ngón tay vào hậu môn ngoáy ngoáy khám khám thì cũng biết được tình trạng to nhỏ, cứng mềm, nhẵn nhụi hoặc sần sùi của tuyến. Ở tuổi trẻ, tuyến này là môi trường mầu mỡ cho sự nhiễm trùng, viêm, có sạn mà khi về già lại hay sưng và đưa tới u bướu lành hoặc ung thư. Phì Đại Nhiếp Tuyến Thực ra đây không hẳn là một bệnh mà trong nhiều trường hợp là một thay đổi hầu như tự nhiên của tuyến với sự gia tăng tuổi đời của người nam. Các tế bào bình thường trong tuyến sẽ tăng sinh sản và tăng trưởng (Hyperplasia) nhưng tuyến vẫn có hình dạng nguyên thủy và khác với sự tăng sinh bất thường của tế bào mới trong ung thư. Hiện tượng này cũng giống như sự lớn lên của nhũ hoa khi người nữ mang thai. Ở tuổi thiếu niên, nhiếp tuyến bé tí xíu, rồi dưới ảnh hưởng của kích thích tố nam, nó lớn dần lên bằng đầu ngón tay. Từ tuổi 20 đến 40, tuyến giữ nguyên kích thước, nhưng đến tuổi ngoài 45 thì 15% tuyến to lên. Khi đạt tới tuổi 65 trở lên thì 60% người cao tuổi phe ta đều có nhiếp tuyến lớn bằng trái quýt. Nguyên Nhân Lý do mà nhiếp tuyến tăng sinh trưởng chưa được xác định rõ ràng. Có nhiều ý kiến cho là tuổi càng cao thì các tế bào nối tiếp ở giữa tuyến tăng trưởng mạnh, như là mới được bón phân mầu mỡ. Ý kiến khác cho là do tác dụng của kích thích tố đàn ông vì quan sát cho thấy tuyến của những người bị thiến (hoạn quan) không sưng. Ngoài ra sự cắt ống dẫn tinh trùng, xơ cứng gan, cao huyết áp, hút thuốc lá cũng được nêu ra như có thể là nguy cơ sưng nhiếp tuyến. Triệu chứng Vì bao bọc chung quanh ống dẫn tiểu, nên khi sưng to, tuyến sẽ đè vào tiết niệu khiến cho sự tiểu tiện bị tắc nghẽn. Trong đa số các trường hợp, nhất là ở người trên 45 tuổi, sự nghẽn tiểu tiện xẩy ra từ từ: nạn nhân thấy vòi nước tiểu không vọt ra xa, yếu dần, nhỏ giọt, phải rặn mới đái ra hết nước. Nhiều khi nạn nhân phải ngồi trên bàn cầu để cơ bắp dưới xương chậu thư giãn, giúp cho sự đái được dễ dàng. Các triệu chứng thường thấy gồm có: --Bất chợt có một thôi thúc cấp bách muốn đi tiểu mà ta không kiểm soát, kiềm chế được. Lý do là bàng quang bị căng đầy nước tiểu; --Mót đái là vậy mà khi vào nhà cầu thì nước chẳng chịu ra ngay, phải gồng bụng rặn, vì ống dẫn bị nhiếp tuyến đè nghẹt; --Nếu có ra thì vòi nước cũng yếu sìu, ngắt quãng vì “giao thông hào” quá hẹp; --Tiểu xong mà thấy như bọng đái vẫn như còn tưng tức có nước, muốn “pi” thêm; -Nước tiểu sót lại trong bàng quang kích thích nên ta hay đi đái rắt, nhất là vào đêm khuya đang mơ màng giấc điệp; --Nước tiểu đôi khi có máu vì huyết quản dãn nở đứt vỡ; --Nhiều khi vì nằm lâu trong bọng đái nên nước tiểu cũng bị nhiễm vi khuẩn, đưa tới bệnh đường niệu. Trắc nghiệm sưng nhiếp tuyến Hiệp Hội Niệu Khoa Hoa Kỳ đã đề nghị một số câu hỏi để phe ta ước lượng sự rối loạn của nhiếp tuyến. Đó là trong tháng vừa qua: a-Có bao giờ ta thấy có cảm giác như vẫn còn nước tiểu trong bọng đái sau khi tiểu xong? b-Có khi nào ta phải đi tiểu lại vài giờ sau khi vừa mới tiểu ? c-Bao nhiêu lần trong khi tiểu ta phải ngưng rồi lại tiếp tục tiểu? đ-Bao nhiêu lần ta thấy rất khó khăn để nín “tè?” e-Bao nhiêu lần ta thấy vòi nước tiểu yếu đi? g-Bao nhiêu lần ta phải rặn để bắt đầu tiểu tiện? h-Bao nhiêu lần ta phải thức dậy để đi tiểu từ lúc chập tối tới sáng? Nếu dăm câu trả lời đều là CÓ thì nhiếp tuyến của ta bắt đầu có vấn đề rồi đấy. Chẩn đoán bệnh Để định bệnh, bác sĩ căn cứ vào lời khai những triệu chứng kể trên rồi xác định bằng cách khám hậu môn coi nhiếp tuyến lớn tới mức nào. Nước tiểu được phân tích coi có lẫn máu hoặc bị nhiễm khuẩn. Thử nghiệm máu Prostate-Specific Antigen (PSA) xem có bị ung thư không. Điều trị Điều trị tùy thuộc vào hai điểm chính: --Mức trầm trọng của các triệu chứng. --Các triệu chứng ảnh hưởng tới đời sống như thế nào. Đa số bệnh nhân muốn điều trị vì những trở ngại trong việc tiểu tiện. Đó cũng là mục tiêu của các phương thức trị liệu hiện có. Sưng nhiếp tuyến có thể được điều trị bằng dược phẩm, giải phẫu hoặc các phương pháp ít gây hại (less invasive) mới được áp dụng trong hơn 10 năm vừa qua. Tháng 6 năm 2003, The American Urological Association đã đưa ra một hướng dẫn mới để điều trị Sưng Nhiếp Tuyến Lành. Khi các dấu hiệu nhẹ thì bệnh nhân được theo dõi; khi trầm trọng thì vừa được theo dõi vừa trị liệu. 1-Chờ đợi, theo dõi Trong theo dõi chờ đợi, cả bệnh nhân lẫn bác sĩ đều không dùng các phương pháp trị liệu sẵn có nhưng bác sĩ vẫn theo dõi diến tiến tốt xấu các dấu hiệu bệnh. Biện pháp này được áp dụng khi các dấu hiệu từ nhẹ tới trung bình mà không có biến chứng như bí tiểu tiện hoặc đái rắt. Trong thời gian này, bệnh nhân nên làm một số việc để bệnh khỏi trở nên trầm trọng: a-Giảm uống nước vài giờ trước khi đi ngủ để khỏi phải thức giấc nhiều lần đi tiểu. b-Giới hạn tiêu thụ quá nhiều cà phê vì "caffeine" là chất lợi tiểu, có thể làm triệu chứng xấu hơn. c-Cẩn thận với thuốc lợi tiểu (diuretic) d-Giới hạn các loại thuốc chống dị ứng, nghẹt mũi vì thuốc gây co thắt cơ vòng quanh ống tiết niệu, cản trở sự phóng tiểu. e-Khi mót tiểu, tiểu ngay để tránh nước tiểu ứ đọng làm cho bàng quang quá dãn, yếu. g-Đừng để bị quá lạnh vì khí hậu lạnh khiến cho nước tiểu tích tụ trong bàng quang, kích thích tiểu tiện liên tục. h-Vận động giảm triệu chứng bệnh gây ra do nhiếp tuyên phì đại. 2-Dược phẩm Có nhiều dược phẩm làm nhiếp tuyến teo (Proscar) hoặc làm thư dãn cơ thịt ở vùng xương chậu (Hytrin), khiến tiểu tiện được thông. Thảo mộc Saw Palmetto cũng được y giới mang ra áp dụng với nhiều hứa hẹn tốt. Y giới cũng khuyên không nên ăn thực phẩm có nhiều gia vị cay, cữ uống rượu, giảm tiêu thụ cholesterol, e rằng những chất này kích thích khiến tuyến sưng to hơn. Ngoài ra nên ăn nhiều rau trái, vận động cơ thể, đừng ngồi quá lâu cũng như xuất tinh thường hơn để ống dẫn tinh khỏi nghẹt. 3-Giải phẫu a-Giải phẫu qua tiết niệu Nếu tuyến quá lớn, khiến người bệnh thấy khó chịu thì cần giải phẫu để gọt nhỏ hoặc cắt bỏ tuyến sưng. Giải phẫu là trị liệu hữu hiệu nhất được áp dụng khi dược phẩm không thành công. Phẫu thuật có thể là mổ lớn (open prostatectomy) hoặc thực hiện qua niệu đạo (transurethral resection of the prostate TURP), không có vết sẹo. Theo ý kiến các bác sĩ chuyên khoa, nếu đang có các bệnh mãn tính trầm trọng thì phẫu thuật không là lựa chọn đúng và sự hồi phục sau giải phẫu có thể lâu hơn. Đó là các bệnh tiểu đường không được kiểm soát, xơ cứng gan, bệnh tim, thận, phổi và vài tâm bệnh trầm trọng. Sau giải phẫu, một số khó khăn thường xảy ra, như là: --Khó khăn tiểu tiện Ngay sau khi giải phẫu, dòng nước tiểu mạnh hơn nhưng đôi khi cần vài tháng tiểu tiện mới trở lại bình thường. --Đái són Đó là do không kiểm soát được sự tiểu tiện, nhưng may mắn là rối loạn này chỉ tạm thời chứ không kéo dài. --Chảy máu Trong mấy tuần lễ đầu sau giải phẫu, sẹo mổ ở bọng đái có thể hé mở, máu chảy vào nước tiểu. Điều này gây ra lo sợ nhưng chấm dứt sau thời gian ngắn nằm nghỉ và uống nhiều nước. --Một số người bị loạn cương dương tạm thời, đôi khi tinh khí chạy ngược lên bọng đái, nhưng không gây trở ngại gì tới việc giao hoan. b-Ngoài TURP, tia laser cũng được dùng để tiêu hủy các mô bào tăng trưởng của nhiếp tuyến mà không gây tổn thương cho tế bào ở xung quanh. Lợi điểm của laser là ít xuất huyết, mau lành hơn mổ xẻ. Chăm sóc sau khi giải phẫu Sau giải phẫu, bệnh nhân nằm lại từ 3-10 ngày tùy theo loại phẫu thuật và khả năng lành bệnh của mỗi người. Một ống dẫn nước tiểu được đưa vào bọng đái vài ba ngày để lấy nước tiểu ra ngoài. Trong vài tuần lễ sau giải phẫu, về nhà nên tránh công việc nặng hoặc căng thẳng để vết mổ không bị rách. --Uống nhiều nước để rửa sạch bọng đái. --Tránh rặn khi đi cầu. --Dinh dưỡng cân bằng để tránh táo bón. Nếu bị bón, xin bác sĩ biên toa mua thuốc chữa. --Đừng nâng nhấc vật nặng. --Đừng lái xe hoặc điều khiển máy tự động. 4-Phương pháp ít gây hại Các phương pháp này có mục đích hủy hoại các tế bào nhiếp tuyến sưng đè lên niệu đạo, nhờ đó tiểu tiện được hạnh thông và giảm số lượng nước tiều còn lại trong bọng đái. Phương pháp không tiêu hủy hoàn toàn tuyến sưng. Các phương pháp đang được áp dụng: Dùng sức nóng của tia vi ba (microwave), radio wave để làm teo tế bào tuyến sưng, đưa một "stent" vào niệu đạo để mở rộng nơi bị tắc nghẽn. Ngoài ra các nhà nghiên cứu đang thử nghiệm các phương pháp mới như dùng nước nóng trong “balloon” áp lên vùng tiết niệu bị nghẹt, bơm rượu nguyên chất hoặc độc tố "Botox" vào nhiếp tuyến để tiêu hủy tế bào phì đại… Kết luận Phì đại tuyến lành tính nhiếp không phải là ung thư nhiếp tuyến. Phì đại không chuyển sang ung thư và cũng không là rủi ro gây ung thư cho tuyến này. Khó khăn chính của phì đại là rối loạn tiểu tiện. Có nhiều phương thức trị liệu khác nhau, mỗi bệnh nhân đáp ứng với mỗi phương pháp một cách riêng. Lựa chọn điều trị tùy thuộc vào các dấu hiệu bệnh và các trở ngại do dấu hiệu gây ra. May mắn là hiện nay có nhiều phương thức để người bệnh chọn lựa. Chỉ cần thảo luận kỹ càng và hợp tác với bác sĩ. Rồi chờ “Phúc Chủ, Lộc Thầy,” đôi bên đều hân hoan ăn mừng. Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức Texas- Hoa Kỳ
|
|
|
Post by NHAKHOA on Apr 13, 2009 10:42:46 GMT -5
Focus On Health utilizes a number of leading-edge treatments to help bring you lasting results. www.focusonhealthpt.com/Treatments.aspFocus On Health Can Help Relieve Symptoms Of: Fibromyalgia Chronic, Unresolved Pain Neck & Back Pain Chronic Headaches Muscular Pain & Tightness Soft Tissue Disorders Jaw Pain & TMJ Dysfunction Sciatica & Coccyxdynia Sports Injuries & Orthopedic Issues Myofascial Pain & Dysfunction Chronic Fatigue Post-Surgical Recovery & Rehabilitation Pain Related to Scar Adhesions Infant Birth Trauma & Colic Post-Head Trauma (stabilized) Thoracic Outlet Syndrome Carpal Tunnel Syndrome Arthritis Post-Traumatic Stress Disorder Stress Associated With Pain and Dysfunction Women's Health Issues Digestive Challenges … as well as other physiological conditions Our Treatment Methods Include: Myofascial Release is a gentle whole-body approach designed to lengthen the connective tissue of your body, called fascia. Fascia is a three-dimensional web-like structure that surrounds and connects every part of your body down to the cellular level. Since fascia connects every cell to all other cells throughout your body, an injury in one part of your body may lead to pain or dysfunction in a completely different area. This treatment releases the restrictions in your facial system and can relieve a number of chronic symptoms. CranioSacral Therapy is a light-touch manual therapy that addresses restrictions in the skull, spinal cord and surrounding tissue. They use delicate techniques to detect potential restrictions and imbalances and releases restricted areas to relieve unnecessary pressure on the brain, spinal cord and all other regions of your body. CranioSacral Therapy enhances your body's natural healing processes and has been effective for a wide range of health challenges associated with pain and dysfunction. It is an effective form of treatment for a wide range of illnesses, helping to create the optimal conditions for health. After a traumatic or surgical scar is created, adhesions are formed which pull on your vital structures. This can greatly limit movement and elicit pain in various parts of your body. This treatment improves function in all of your body systems, increases range of motion, decreases pain and often reduces the physical properties of the scar itself. The treatment of your old scars can still create a positive therapeutic response in your body and is extremely important and often overlooked. Kim Lawler-Coyle, P.T., has specialized in TMJ Therapy since 1984. Problems with the temporomandibular joint (or jaw joint) causes more than just jaw pain. It results in numerous interrelated conditions including headaches, ear and sinus problems, dizziness, as well as facial, neck or shoulder pain. Kim incorporates our entire experienced team in the treatment plan to maximize the benefits received by you. Kim’s knowledge and specialized experience in the field of TMJ have resulted in dozens of Orange County dentists and physicians trusting Focus On Health with the treatment of their patients. The Feldenkrais Method® utilizes two primary techniques: Functional Integration, a gentle, hands-on approach, and Awareness Through Movement, which uses verbal direction, movement and imagery. These are two variations to improve a person’s posture, body awareness, mobility, balance, coordination and function in everyday living. We offer ATM classes Tues. and Wed. evenings from 6:00-7:00pm. Call (949) 851-8121 for more information. Every person can benefit from Visceral Manipulation (organ-specific myofascial mobilization), which encourages a vibrant, dynamic organ system that has a positive effect on the entire body. Focus On Health may use Visceral Manipulation in your treatment program to release restrictions in your body’s organs that can originate from trauma, illness, surgery, poor diet or emotional stress. Successful treatment can improve digestion, reduce soft tissue pain, enhance movement, vitality and well-being. Lymphatic Drainage Therapy (LDT) is a very gentle hands-on technique designed to activate and cleanse our immune system. Our team can detect the specific rhythm, direction, depth and quality of the lymphatic flow with the light touch of their hands and fingers. LDT’s many benefits include the reduction of swelling, enhanced body detoxification, tissue regeneration and relief of chronic pain. Therapeutic Exercise helps to increase your range of motion through stretching and mobility exercise. Our team will often use one-on-one therapeutic exercise as the foundation for rehabilitation, muscle strengthening, postural stabilization, endurance training and conditioning programs. It is vital to improve muscles that may have weakened after trauma, illness, surgical procedures or from general lack of exercise. This program also plays a role to help you maintain your strength as you age and prevent possible future injury. Focus On Health’s experienced staff are able to correctly assess what elements of therapeutic exercise are best for your rehabilitation and treatment plan. The goal of Body Mechanics Training is to provide you with the knowledge to prevent potential injury while correctly aligning your body, improving posture and increasing your body awareness. This is a highly beneficial education for everyone, especially those who suffer from repetitive strain injuries.
|
|
|
Post by NHAKHOA on Apr 18, 2009 17:49:58 GMT -5
Thuốc Tây, Thuốc Bắc, Thuốc Nam Tác giả: BS Nguyễn Văn Hoàng (Hoàng Nguyên) Kính thưa quý vị, một hôm, có một bệnh nhân đến phòng mạch, yêu cầu chúng tôi thử máu tổng quát. Là bác sĩ, trước khi thử máu thì cần phải biết tại sao bệnh nhân có yêu cầu này, vì nhiều khi bệnh nhân có những căn bệnh mà cuộc thử nghiệm tổng quát không phải là thử nghiệm thích hợp nhất. Sau khi được hỏi bệnh cẩn thận, bệnh nhân dứt khoát là không bị bệnh gì cả, chỉ muốn khám nghiệm tổng quát. Thấy bệnh nhân trong độ tuổi giữa 45 và 49, cũng là tuổi mà bộ y tế muốn các BS làm một cuộc khám nghiệm tổng quát, chúng tôi đồng ý cho bệnh nhân thử máu. Thật tình cờ, khi kết quả trở về thì cho thấy bệnh nhân bị suy gan khá trầm trọng. Tất nhiên tiếp theo đó những thử nghiệm khác được tiến hành, để tìm hiểu thêm nguyên nhân của sự suy gan, mà người Việt mình thường gọi là nóng gan, như thử các bệnh viêm gan do siêu vi khuẩn gây ra, siêu âm gan, và hỏi lại thật cặn kẻ việc ăn uống cùng thuốc men của bệnh nhân. Nên biết, rượu hay thuốc làm giảm mỡ (cholesterol) cũng thường là nguyên nhân làm cho "nóng gan". Kết quả là không một nguyên nhân nào được tìm thấy, nhưng chính trong lần khám nghiệm thứ ba này, bệnh nhân tiết lộ đang dùng thuốc Bắc, mặc dù trong những lần khám nghiệm trước, đã được hỏi về những thuốc men mà bệnh nhân sử dụng. Sau một thời gian ngưng uống liều thuốc Bắc này, gan bệnh nhân trở lại bình thường. Kính thưa quý vị, chúng tôi lớn lên ở VN, tuy không học qua Đông y, nhưng cũng nghe lõm bõm về khái niệm âm dương ngũ hành, thổ sinh kim, thủy khắc hỏa vân vân. Khi ở VN thì chúng tôi học 4 năm đại học ngành hóa học, thấy người Tây phương chia vạn vật ra làm hàng tỉ tỉ hợp chất khác nhau, mà thành phần đơn chất căn bản để cấu tạo nên những hợp chất này là nguyên tố, như oxygen, carbon, sắt, đồng, nitrogen vân vân. Té ra đời không thể nhìn đơn giản với kim mộc thủy hỏa thổ mà đủ (quan niệm của Hy Lạp cách đây mấy ngàn năm cũng tương tự như vậy, nhưng nay người ta đã tiến rất xa rồi). Khi sang Úc, học ngành y, thì chúng tôi được biết thêm cách thức Tây phương nghiên cứu thuốc men. Xin được vắn tắt về cách Tây y nghiên cứu một môn thuốc trước khi thuốc này được đưa ra thị trường cho người bệnh dùng. Một liều thuốc Tây căn bản, thường chỉ bao gồm một hợp chất (hoặc cao lắm là vài hợp chất) trộn với chất bột không có tính thuốc. Sau khi thử trên loài vật có hệ thống sinh lý tương đối giống con người và đã xác định được hiệu quả của thuốc, người ta mới bắt đầu thử trên con người. Ở giai đoạn thử trên con người này, hầu như luôn luôn người ta sử dụng phương pháp gọi là "double blinded study". Xin đưa một thí dụ. Các bệnh nhân có cùng một căn bệnh, sẽ được chia làm 2 nhóm. Một nhóm sẽ được cho uống thuốc thật và một nhóm được cho uống thuốc giả (placebo), tức là viên thuốc chỉ có chất bột mà không có hợp chất thuốc. Bác sĩ cho thuốc cũng không hề biết viên thuốc mình cho bệnh nhân uống là thực hay giả, và tất nhiên bệnh nhân cũng không biết luôn. Do đó, người ta gọi là "double blinded", cả hai, thầy lang và con bệnh, đều bị "bịt mắt". Người biết ai uống thuốc thật, ai uống thuốc giả là những nhân viên hành chánh, chưa hề gặp mặt các bệnh nhân. Sau một thời gian dùng thuốc, bệnh nhân được kiểm tra lại. Thí dụ như trong trường hợp thử nghiệm loại thuốc giảm áp huyết, người ta sẽ đo lại áp huyết của bệnh nhân, và so sánh với áp huyết trước khi dùng thuốc. Cùng lúc, người ta hỏi bệnh nhân về các phản ứng phụ, như buồn nôn, chóng mặt vân vân, và đo đạc những thay đổi khách quan khác như thử máu xem gan có bị "nóng" (bệnh) hay không, công năng thận ra sao vân vân. Sau đó người ta đưa sang thống kê để phân tích. Nếu trường hợp 99% người uống thuốc thật khỏi bệnh, còn chỉ có 1% người uống thuốc giả khỏi bệnh, thì ta có thể kết luận là thuốc này công hiệu. Ngược lại, nếu chỉ có 5% người uống thuốc thật hết bệnh và có 4% người uống thuốc giả cũng khỏi bệnh, thì có thể ta cũng thấy được uống thuốc hay không cũng không khác gì nhau, tức là thuốc không hiệu nghiệm. Nhưng thông thường, kết quả không rõ rệt như vậy, mà có thể là 563/1000 người dùng thuốc thật sẽ khỏi bệnh, 230/1000 người dùng thuốc giả hết bệnh. Như vậy thì thuốc thật có công hiệu không? Và thuốc giả thì sao, vì cũng có người hết bệnh đó mà. Đến đây, vai trò của toán thống kê vô cùng quan trọng. Toán thống kê cuối cùng sẽ cho ta một kết luận, kết luận rằng có thể nào vì "rùa" (tình cờ) mà có nhiều người uống thuốc thật khỏi bệnh hơn người uống thuốc giả không. (chỉ số dùng để kết luận này được gọi là "p value", và nếu nó nhỏ hơn 0.05 thì kể như không thể nào thuốc thật "chó ngáp phải ruồi" được). Song song đó, người ta cũng phải bảo đảm những bệnh nhân tham gia cuộc thử thuốc không có những bệnh khác, hoặc không có uống những thuốc khác. Sở dĩ người ta phải so sánh người uống thuốc thật và thuốc giả là để loại đi vai trò của tâm lý ảnh hưởng lên người bệnh (hiệu ứng tâm lý này rất quan trọng, gọi là placebo effect), vì nhiều người chỉ nhờ tin tưởng mà hết bệnh, nhất là đối với những chứng bệnh mà ta không thể đo lường một cách khách quan được, thí dụ như bệnh nhức đầu. (Nhức, đau, ngứa là những triệu chứng vô cùng chủ quan, chỉ có bản thân bệnh nhân mới định lượng được thôi). Và, sở dĩ người ta chú ý đến những yếu tố khác của bệnh nhân là vì những yếu tố này có thể ảnh hưởng đến căn bệnh. Thí dụ như một người nghĩ rằng vì nhờ uống hà thủ ô mà tóc trở nên đen, nhưng không chừng trong thời gian đó, người này ăn nhiều rau giấp cá, mà chính rau giấp cá mới có tác dụng làm đen tóc thì sao (chỉ thí dụ như vậy mà thôi). Chắc chúng ta không biết được trong 1000 người uống hà thủ ô thì có bao nhiêu người tóc bạc trở thành đen (e rằng không có đến 1 người, nhờ vậy mà thuốc nhuộm tóc vẫn bán chay re re). Kính thưa quý vị, đó là quá trình thử nghiệm và thực nghiệm của Tây y, mà theo chúng tôi, y học cổ truyền của chúng ta không có. Y học cổ truyền dựa trên kinh nghiệm tích lũy, nhưng không có thống kê rõ ràng. Chúng tôi được biết có rất nhiều bệnh nhân tin rằng uống thuốc Bắc sẽ khỏi một số bệnh nan y, tốn tiền rất nhiều, nhưng cuối cùng trong một ngàn người dùng thuốc này có bao nhiêu người khỏi bệnh và bao nhều người... quy tiên, ta cũng không biết. Một số người do nhìn thấy một vài trường hợp cá biệt rồi khái quát hóa, cho rằng liều thuốc đông y ấy có hiệu nghiệm trên mọi người. Có lẽ là vì Đông y thiếu thực nghiệm và thống kê. Thứ đến, rất nhiều bệnh nhân than phiền về phản ứng phụ của Tây y. Kính thưa quý vị, trong khi một viên thuốc Tây chỉ có một hay hai hợp chất, thì một khúc rễ cây, một túi mật, có hàng chục đến hàng trăm hợp chất trong đó. Như vậy thì "phản ứng không mong muốn" (unwanted effects) ắt phải nhiều hơn rất nhiều. Một viên Morphine chỉ chứa có chất Morphine mà thôi, trong khi đó nếu ăn một cây á phiện thì ta cho vào cơ thể biết bao nhiêu tạp chất khác. Vấn đề nằm ở hai chữ: LIỀU LƯỢNG. Kính thưa quý vị, chắc chắn một số thuốc Ta, thuốc Bắc, thuốc Nam cũng có hiệu lực, nên mới lưu truyền cả ngàn năm, nhưng sự nghiên cứu của những loại thuốc này thực thua kém thuốc Tây rất xa. Nói đến thuốc Bắc thuốc Nam thì chắc có lẽ vua Càn Long, Tần Thủy Hoàng, các đại quan, phú hộ của Tàu là người uống nhiều nhất, cũng được toàn các danh y, Hoa Đà, Biển Thước chẩn trị. Nhưng kết quả các vị ây ra sao, chết lúc bao nhiêu tuổi, có mạnh khỏe hơn tổng thống Bush hay không, ta cũng thấy rồi. Các vị ngày xưa thường nói, nhân sinh thất thập cổ lai hy, bây giờ với Tây y thì nhân sinh thất thập mà "die", thì là... hơi yểu mệnh đó. Ngày nay, có rất nhiều cô chú bác đã xấp xỉ thất thập, nhưng vẫn còn mạnh cuồi cuội, đi shop, đi du lịch, đi biểu tình rần rần, so với các vị quan lớn, vua chúa ngày xưa thì khỏe và thọ hơn nhiều, dù không uống sâm nhung, dù không dùng cao hổ cốt, lộc nai, sừng tê giác. Bài tâm tình về thuốc này không nhằm việc bài bác Đông y, mà chỉ để chúng ta thấy được sự khác biệt trong nghiên cứu giữa Đông và Tây y. Là một người theo ngành khoa học, nhìn đời qua cặp mắt thống kê, cá nhân của chúng tôi chỉ được thuyết phục khi nào thuốc Bắc, thuốc Nam, Đông y, Trung Y, có những nghiên cứu tinh tế, chi tiết, với sự chứng minh của thống kê mà thôi. Nhiều bệnh nhân khi gặp bác sĩ Tây y, thường hỏi thuốc này có những phản ứng phụ gì. Hầu như lúc nào BS cũng biết, nếu không biết thì mảnh giấy hướng dẫn trong hộp thuốc cũng có ghi. Quý vị vẫn có thể dùng thuốc Bắc, thuốc Nam, nhưng khi gặp các Đông y sĩ, hay Trung y sĩ, nên hỏi xem thuốc ấy có tạo phản ứng phụ gì không. Điều này sẽ hữu ích cho hiểu biết và sức khỏe của chúng ta. (*) Mọi thắc mắc về y tế, quý vị có thể liên lạc trực tiếp với BS Nguyễn văn Hoàng qua email hoang4eb@gmail.com BS Nguyễn Văn Hoàng (Hoàng Nguyên).
|
|
|
Post by NHAKHOA on Apr 28, 2009 13:40:29 GMT -5
Câu Chuyện Thầy Lang: Cúm Heo BÁC SĨ NGUYỄN Ý-ĐỨC . Việt Báo Thứ Ba, 4/28/2009, 12:00:00 AM Câu Chuyện Thầy Lang: Cúm Heo Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức Trong mấy tuần lễ vừa qua, tin tức về Cúm Heo (Swine Flu) đã được truyền thông tới tấp loan báo, thảo luận. Dân chúng rất quan tâm và e ngại theo dõi. Trong khi đó thì các chuyên viên y tế công cộng trên thế giới đã nhóm họp khẩn cấp tại Geneve để thảo luận về tình trạng nguy hại của cúm heo ở loài người hiện đang xảy ra tại mấy quốc gia Bắc Mỹ và tìm biện pháp đối phó. Họ liên tục thảo luận với nhau bằng điện thoại và sẽ họp lại một lần nữa vào ngày thứ ba 28/4/2009 để duyệt xét tình hình và cân nhắc xem có cần tuyên bố tình trạng dịch bệnh. Tổng Giám Đốc Cơ Quan Y tế Thế Giới Margaret Chan tuyên bố: “Đây là một vấn đề sức khỏe công cộng khẩn cấp có tính cách toàn cầu vì virus gây ra cúm heo tại Mexico là loại mới lạ, rất nguy hiểm và có khả năng gây dịch cho nhiều quốc gia”. Cơ quan Y tế Thế giới yêu cầu các quốc tăng cường theo dõi sự xuất hiện đột ngột của các bệnh có triệu chứng giống như cúm và các trường hợp sưng phổi trầm trọng. Tại Hoa Kỳ, nhân viên Cơ quan Phòng Bệnh CDC được khẩn cấp đưa tới các tiểu bang California, Kansas, Texas, New York để tăng cường với giới chức địa phương theo dõi, nghiên cứu và đối phó với các trường hợp cúm heo ở người. Bộ Trưởng Nội an Hoa Kỳ Janet Napolitano cũng hủy bỏ chuyến công tác ở Tiệp Khắc để theo dõi, đối phó với tình trạng cúm này tại Hoa Kỳ. Nước láng giềng của Hoa Kỳ là Mexico cũng đang bận rộn đối phó với dịch cúm heo lan sang người với cả ngàn bệnh nhân tại nhiều thành phố. Đô Trưởng thủ đô Mexico đã đóng cửa các trường học, giới hạn tụ họp đông đảo quần chúng trong vòng 10 ngày và khuyến cáo dân chúng mang khẩu trang để tránh hít virus trong không khí khi ra ngoài đường. Tại Pháp, có 2 trường hợp và New Zealand có một trường hợp nghi ngờ cúm heo. Tất cả đều đã du lịch ở Mexico trở về. Vậy thì Cúm Heo là gì? Xin cùng tìm hiểu Định nghĩa Cúm Heo hoặc cúm Lợn là bệnh hô hấp của loài heo do các virus nhóm cúm A gây ra. Bệnh thấy ở các chú hậu thân của ngài “Chư Bát Giới” này. Bình thường thì con người không bị bệnh cúm heo, nhưng cũng đã có trường hợp cúm heo xảy ra ở những người tiếp cận với heo. Virus cúm heo cũng có thể lây lan từ người sang người. Một bằng chứng là vào mấy tháng đầu năm 2009, nhiều trường hợp cúm heo đầu tiên với rirus H1N1đã thấy ở một số cư dân tại miền nam tiểu bang California và ở gần thành phố San Antonio, tiểu bang Texas. Nhóm virus influenza A/ H1N1 này cùng loại với virus gây cúm mùa Đông nhưng có biến chuyển gene khác biệt chưa từng khám phá ra trước đây ở người và heo. Chúng thành hình do sự phối hợp của virus cúm gà, cúm heo và cúm người. Cũng xin nhắc lại là virus cúm chim gà xuất hiện tại các quốc gia Đông Nam Á trong những năm vừa qua khác virus cúm heo. Cúm gà thuộc nhóm H5N1 còn cúm heo là H1N1. H5N1 hầu như chỉ có ở gà vịt, chim muông và hiếm khi lây sang người trừ khi có sự tiếp xúc trực tiếp giữa người và gà chim bị cúm. Trường hợp cúm gà lây từ người sang người lại càng hiếm nữa. Bệnh cúm heo có nguy hiểm không ? Cũng giống như bệnh cúm màu Đông, tình trạng bệnh của cúm heo có thể nhẹ hoặc trầm trọng. Từ năm 2005 tới tháng 1 năm 2009 đã có 12 trường hợp cúm heo ở người được khám phá tại Hoa Kỳ và không có tử vong. Tuy nhiên cúm heo cũng có thể trầm trọng. Vào tháng 8 năm 1988, tại tiểu bang Wisconsin, một phụ nữ khỏe mạnh 32 tuổi đang có thai mắc cúm heo được vào bệnh viện điều trị sưng phổi và thiệt mạng sau đó 8 ngày. Năm 1976, dịch cúm heo tại căn cứ quân sự Fort Dix, New Jersey gây bệnh cho hơn 200 người với vài tử vong. Ngay thời điểm này, các khoa học gia nhận thấy virus gây cúm heo thuộc nhóm A/H1N1 và là hậu duệ của virus cúm gây ra đại dịch thế giới vào năm 1918. Virus đó đã lây bệnh cho heo ở vủng trung tây và đưa tới bệnh cúm heo tại một vài địa phương những năm sau đó. Cũng ghi lại là, với dịch cúm heo này, giới chức y tế đã thảo luận và cho là dịch bệnh cúm heo có thể gần kề và đã phát động chiến dịch chủng ngừa cúm cho 50 triệu người.Nhưng rồi dịch cúm không xảy ra. Đó là dưới thời kỳ Tổng Thống Gerald Ford. Năm 2007, một dịch cúm heo khá lớn cũng xảy ra ở Phi Luật Tân. Riêng năm nay, 2009, cho tới ngày 28 tháng 4, số người bị xác định bị bệnh cúm heo ở Mỹ là 7 trường hợp tại California, 2 trường hợp ở Texas, 2 trường hợp ở Kansas, một số học sinh tại New Yorrk và nhiều trường hợp nghi ngờ. May mắn là không có tử vong. Cơ quan CDC tiên đoán là con số bệnh nhân trong toàn quốc sẽ gia tăng. Tại Mexico, Tổng Trưởng Y tế cho hay từ tháng 3 tới 13 tháng 4 năm 2009 đã có khoảng 1600 người được nhập viện với triệu chứng bệnh tương tự như cúm, 81 tử vong nhưng mới chỉ có 20 trường hợp được thử nghiệm xác định bị cúm heo A/H1N1. Tổng thống Mexico đã ban hành nhiều biện pháp để bảo vệ sức khỏe dân chúng trong đó có việc cô lập người nghi ngờ cúm mà không sợ vi pham pháp luật. Một số quốc gia tại Á châu như Nhật, Đài Loan, Indonesia, Trung quốc…đều đề cao cảnh giác và theo dõi, cách biệt du khách trở về sau khi du lịch ở Mexico. Tại Âu châu, Pháp cho hay có hai du khách từ Mexico về đã được cách ly, theo dõi tại bệnh viên gần thành phố Bordeaux và Marseilles. Quốc gia Serbia cấm nhập cảng thịt heo từ Bắc Mỹ, mặc dù cơ quan Lương Nông Quốc tế đã chấn an là ăn thịt heo không lây bệnh. Hiện nay tình trạng báo động dịch của WHO mới ở mức độ số 3, sẽ chuyển sang cấp 4 nếu virus có khả năng lan truyền từ người sang người. Báo động cấp 5 khi virus xuất hiện tại 2 quốc ở cùng vùng và cấp 6 khi dịch xảy ra toàn cầu. Cách truyền bệnh Theo trung tâm Kiểm Soát Bệnh CDC Hoa kỳ, virus cúm heo rất dễ truyền nhiễm và có thể lây lan sang người bằng hai cách: -Qua sự tiếp cận với heo bị cúm hoặc với môi trường nhiễm với virus cúm heo. -Qua sự tiếp xúc với người mắc bệnh cúm heo. Sự lây lan này cũng tương tự như lây lan cúm, tức là khi người bệnh ho, hắt hơi, nhà virus vào không khí rồi truyền sang người khác. Người mắc bệnh cúm heo có khả năng lây lan trong suốt thời gian có dấu hiệu triệu chứng bệnh và một tuần lễ sau khi bệnh thành hình. Riêng với trẻ em, thời gian truyền bệnh lại lâu hơn. Một điểm cần ghi nhận là bệnh cúm mùa Đông người thường xảy ra ở người thật trẻ hoặc hơi già, còn cúm heo lại xuất hiện ở tuổi trung niên từ 25-45 tuổi, khỏe mạnh. Cúm heo ở người trước đây cũng rất hiếm, và thường hay thấy ở những người tiếp xúc trực tiếp với heo bị bệnh đường hô hấp. Cúm heo thường xuất hiện vào mùa Thu và mùa Đông, nhưng cũng có thể lưu hành suốt năm. Xin nhấn mạnh là dù có ăn thịt heo bị cúm cũng không lây bệnh vì virus cúm heo không lây lan qua thực phẩm. Tuy nhiên nên nấu chín thịt ở nhiệt độ 70C (158F) và cất giữ đúng cách để mọi sự an toàn. Dấu hiệu, Triệu chứng Cúm heo có các triệu chứng tương tự như bệnh cúm thường của người và gồm có nóng sốt, ho, sổ mũi, hắt hơi, đau họng, nhức xương cốt, mệt mỏi, run lạnh, đôi khi có tiêu chảy, ói mửa. Cũng đã có nhiều trường hợp cúm heo trầm trọng ở người với một vài tử vong. Nhiễm cúm heo cũng có thể khiến cho các bệnh mãn tính đang có trở nên trầm trọng hơn. Điều trị Cơ quan CDC đề nghị dùng thuốc Tamiflu và Relenza dạng nước, viên, hít để phòng tránh và điều trị cúm heo. Các thuốc này có tác dụng tiêu diệt, không cho virus tăng sinh trong cơ thể người bệnh, làm cho bệnh nhẹ, mau bình phục hơn cũng như có thể tránh được các biến chứng quan trọng của bệnh. Để thuốc có công hiệu, cần uống ngay sau khi vị bệnh, chẳng hạn như trong vòng 2 ngày sau khi thấy có dấu hiệu bệnh. Mới đây, các giới chức y tế tại Mexico cho hay bệnh nhân nơi đây đáp ứng rất tốt với thuốc. Phòng tránh Hiện nay chưa có thuốc chích ngừa virus bệnh cúm heo. Theo các nhà chuyên môn, vaccin ngừa cúm mùa Đông dường như không có tác dụng với virus cúm heo. Tuy nhiên mỗi người chúng ta có thể phòng tránh sự lây lan virus gây bệnh bằng các phương thức như sau : -Che miệng và mũi với một miếng giấy hoặc khăn lau mỗi khi ho hoặc hắt hơi để virus không bay ra không khí. -Rửa tay sạch sẽ với xà bông và nước nhất là sau khi ho, hắt hơi. Các sản phẩm có cồn để lau tay cũng có tác dụng diệt virus. -Cố gắng giới hạn sự tiếp xúc với người đang bị bệnh cúm. -Nếu đang bị bệnh thì theo CDC, nên ở nhà để nghỉ và chữa bệnh. Như vậy sẽ tránh được việc lây nhiễm bệnh cho người khác. -Tránh dụi tay lên mắt, tay sờ lên mũi miệng vì đây là phương thức lan truyền của virus. Cần làm gì khi mắc bệnh cúm heo Nếu quý vị nào đang định cư tại các quận hạt San Diego và Imperial ở tiểu bang California hoặc quận hạt Guadeloupe ở tiểu bang Texas mà bị bệnh với các triệu chừng tương tự cúm, gồm có nóng sốt, đau nhức mình mảy, đau họng, chảy nước mũi, nôn ói, tiêu chảy thì nên tiếp xúc với bác sĩ ngay để được khám nghiệm, chẩn đoán bệnh rồi áp dụng các phương pháp điều trị thích hợp. Nếu đang bị cúm heo, nên ở nhà và giới hạn tiếp xúc với người khác để giảm thiểu sự lan truyền bệnh nhiễm. Đang bị bệnh mà có các dấu hiệu như sau thì nên tìm cấp cứu ngay : -Trẻ em với các dấu hiệu trầm trọng như : -Thở khó khăn hoặc hơi thở hổn hển, quá nhanh và nông -Trên da có những vết bầm xanh -Không chịu uống nước đầy đủ -Nằm li bì và không cựa quậy -Trở nên bẳn tính, gắt gỏng, không chịu để cho ai bế ẵm. -Các dấu hiệu giống như cúm đã khả quan nhưng tái xuất hiện với nóng sốt, ho liên miên. -Nóng sốt với nổi ban ngứa trên da. -Người lớn với : -Khó thở, hụt hơi thở. -Đau nặng ở ngực và bụng -Đột nhiên thấy cóng mặt trầm trọng -Rối loạn tâm trí, mất phương hướng. -Ói mửa liên tục. Kết luận Cúm Heo hiện nay đang xảy ra ở hai quốc gia Hoa Kỳ và Mexico và có khả năng gây ra dịch toàn vùng (pandemic), tức là bệnh bộc phát lan tràn rộng rãi, ảnh hưởng tới dân chúng của nhiều quốc gia khác nhau. Tuy nhiên lãnh đạo của Tổ chức Y Tế Thế Giới tuyên bố là quá sớm để biết sự việc này có xảy ra hay không. Ngày 25 tháng 4 năm 2009, Giám đốc WHO Margaret Chan yêu cầu giới chức y tế các quốc gia đề cao cảnh giác đối với các mô hình khác nhau của bệnh cũng như bất cứ sự tăng vọt bệnh cúm hoặc bệnh sưng phổi. Cho tới bây giờ, CDC chưa đưa ra khuyến cáo giới hạn du khách tới các vùng có bệnh cúm heo này. Trong khi đó thì giới chức sứ quán Hoa Kỳ tại Mexico khuyến cáo du khách không nên bắt tay với người khác và đứng xa họ khoảng 6 feet tức là 1.8 m. Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức M.D. Texas-Hoa Kỳ
|
|
|
Post by NHAKHOA on May 27, 2009 11:03:40 GMT -5
Tăng cân ở tuổi trung niên dẫn đến những suy yếuMay 27, 2009 Béo phì có liên quan đến hàng loạt những vấn đề về sức khỏe Theo các nhà nghiên cứu Finnish thì những người mắc chứng thừa cân hoặc béo phì ở tuổi trung niên thường có nguy cơ dễ mắc bệnh ở những độ tuổi về sau. Một nghiên cứu trên 1.000 người đàn ông cho thấy những nguy cơ cao dẫn đến tử vong và các chứng bệnh khi họ tăng cân ở những tuổi 40 cho dù sau đó có thực hiện giảm cân. Có những ý kiến cho rằng những nguy cơ về tim mạch có liên quan đến sự tăng cân ở độ tuổi trung niên dẫn đến những nguy cơ “yếu” cho dù họ không ở trong tình trạng mắc bệnh rõ ràng. Các nhà nghiên cứu nói rằng béo phì được biết là những nhân tố mầm móng của các bệnh về tim mạch. Trái lại, nghiên cứu cũng cho thấy ở những bệnh suy tim lớn tuổi, trạng thái tăng cân đôi khi lại có tác dụng bảo vệ. Trong nghiên cứu gần đây nhất, các nhà nghiên cứu thực hiện theo dõi trên những người đàn ông từ 25 đến 70 tuổi. Như những dự đoán, những người thừa cân ở độ tuổi 40 có nhiều biểu hiện xấu hơn những người có cân nặng bình thường. Tuy nhiên, khi theo dõi sức khỏe ở những độ tuổi về sau, một bức tranh mới lại hiện lên. Những người tăng cân ở độ tuổi trung niên nhưng giảm cân ở những tuổi về sau có nguy cơ cao của những ca tử vong và mắc nhiều chứng bệnh ở độ tuổi 70. Nhóm người này cũng có nguy cơ cao mắc các chứng về tim mạch ở tuổi trung niên. Sự giảm cân về sau, có thể không là chủ động, không thể giải thích bằng các chứng bệnh như ung thư hay suy tim. Theo các nhà nghiên cứu Finnish thì những người mắc chứng thừa cân hoặc béo phì ở tuổi trung niên thường có nguy cơ dễ mắc bệnh ở những độ tuổi về sau. Một nghiên cứu trên 1.000 người đàn ông cho thấy những nguy cơ cao dẫn đến tử vong và các chứng bệnh khi họ tăng cân ở những tuổi 40 cho dù sau đó có thực hiện giảm cân. Có những ý kiến cho rằng những nguy cơ về tim mạch có liên quan đến sự tăng cân ở độ tuổi trung niên dẫn đến những nguy cơ “yếu” cho dù họ không ở trong tình trạng mắc bệnh rõ ràng. Các nhà nghiên cứu nói rằng béo phì được biết là những nhân tố mầm móng của các bệnh về tim mạch. Trái lại, nghiên cứu cũng cho thấy ở những bệnh suy tim lớn tuổi, trạng thái tăng cân đôi khi lại có tác dụng bảo vệ. Trong nghiên cứu gần đây nhất, các nhà nghiên cứu thực hiện theo dõi trên những người đàn ông từ 25 đến 70 tuổi. Như những dự đoán, những người thừa cân ở độ tuổi 40 có nhiều biểu hiện xấu hơn những người có cân nặng bình thường. Tuy nhiên, khi theo dõi sức khỏe ở những độ tuổi về sau, một bức tranh mới lại hiện lên. Những người tăng cân ở độ tuổi trung niên nhưng giảm cân ở những tuổi về sau có nguy cơ cao của những ca tử vong và mắc nhiều chứng bệnh ở độ tuổi 70. Nhóm người này cũng có nguy cơ cao mắc các chứng về tim mạch ở tuổi trung niên. Sự giảm cân về sau, có thể không là chủ động, không thể giải thích bằng các chứng bệnh như ung thư hay suy tim. “Những triệu chứng suy yếu” Nghiên cứu đứng đầu bởi ông Timo Strandberg, cho biết rằng việc tăng cân ở độ tuổi 40 dẫn đến sự suy yếu ở những tuổi về sau và thường dẫn đến các chứng bệnh về tim mạch, huyết áp cao và giai đoạn đầu của tiểu đường. “Những triệu chứng của suy yếu” khi tuổi về già bao gồm giảm cân, yếu cơ, sự kiệt sức và mất dần các năng lực vận động. Các nhà khoa học cho rằng những nghiên cứu này là rất quan trọng vì sự suy yếu có liên quan những ca tử vong và sự mất dần của các chức năng. Họ cho rằng bác sĩ nên quan tâm nhiều hơn những nhóm bệnh nhân này. Và sự quan tâm này là càng sớm càng tốt. Các nhà khoa học đang dự kiến cho những nghiên cứu sâu rộng hơn để xác định nhóm nào là có lợi cho sức khỏe hơn: những người có cân nặng bình thường trong suốt quãng đời hay là những người lên cân một ít ở độ tuổi từ 60 đến 70. Alasdair Little, y tá khoa Tim của quỹ tim mạch Anh quốc cho biết rằng những nghiên cứu này cung cấp những thông tin về cân nặng có lợi cho sức khỏe và ngăn ngừa chứng đau tim. Chứng béo phì có thể dẫn đến sự phát triển của những nhân tố của chứng đau tim như tăng huyết áp và đái tháo đường. Linh Le (Theo BBC)
|
|
|
Post by NHAKHOA on May 27, 2009 11:05:36 GMT -5
Nghiên cứu mới giúp làm sáng tỏ vấn đề dự đoán sớm ung thư vú May 23, 2009
Có 2 nghiên cứu đã xác định loại protein có liên quan tới sự phát triển của bướu nhằm mục đích có được điều trị tốt hơn.
Hai nghiên cứu này đã nhận thấy rằng nồng độ protein caveloin-1 tìm thấy ở mô chuyển tiếp gần vùng miệng của khối ung thư vú, có thể giúp dự đoán chính xác cho bệnh nhân và giúp cho định hướng cách thức điều trị trong tương lai.
Theo tiến sĩ Agnieszka K. Witkiewicz, từ Trường đại học Thomas Jefferson và các cộng sự, ở Philadelphia cho biết, Caveolin-1 đóng một vai trò quan trọng trong vấn đề làm thế nào mà tế bào hấp thu các chất. Nồng độ caveolin-1 thấp trong các tế bào chuyển tiếp ở gần vùng miệng của khối bướu có mối liên quan tới những bệnh nhân có nguồn thu nhập thấp. Những phát hiện mới này của nhóm nghiên cứu được công bố trên xuất bản tháng 6 của tuần báo Bệnh học Hoa Kỳ.
Nghiên cứu thứ hai, Erica K. Sloan từ Trung tâm ung bướu Peter MacCallum, Australia, và các cộng sự đã nhận thấy sự thiếu hụt tương tự của caveolin-1 ở tế bào chuột có mối liên quan tới sự phát triển xâm lấn của khối bướu ở loài gặm nhấm.
Những phát hiện mới này đã giúp đưa ra giả thuyết rằng caveolin-1 có thể giúp ngăn ngừa bướu phát triển.
Sloan và các cộng sự cho biết: “Những nghiên cứu này giúp đưa ra giả thuyết là nồng độ caveolin-1 có thể giúp tìm ra liệu pháp điều trị trúng đích đầy tiềm năng và có giá trị giúp dự đoán sớm sự phát triển của ung thư vú”.
Các nghiên cứu trước đây cũng đã từng nhận thấy rằng caveolin-1 đóng một phần quan trọng trong sự phát triển của ung thư vú.
Le Quyen (Theo HealthDay)
|
|
|
Post by NHAKHOA on May 27, 2009 11:09:43 GMT -5
Làm việc đêm nhiều gây rối loạn hooc môn và huyết áp May 26, 2009 Ngủ nghỉ không đúng giờ rất có hại cho sức khỏe. Ảnh minh họa: bennadel Ngủ không điều độ có thể làm thay đổi hoạt động tự nhiên của các hooc môn, cũng như quá trình trao đổi chất của cơ thể. Tình trạng này kéo dài sẽ gây ra nhiều nguy cơ đe dọa sức khỏe của bạn. Những kết quả thu được từ nghiên cứu về giấc ngủ ở 10 người lớn khỏe mạnh, giúp các chuyên gia giải thích tại sao người thường xuyên làm ca đêm lại có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường, tim mạch và béo phì cao. Nghiên cứu cho thấy, khi phải làm đêm khoảng 12 tiếng, trong cơ thể có dấu hiệu thay đổi về huyết áp và hoạt động của một số hooc môn chủ chốt, khiến người làm việc thấy khó chịu. Đồng thời, họ cũng không thể ngủ sâu một cách thoải mái. Bên trong cơ thể, người ta thấy rằng, mức hooc môn leptin - loại hooc môn thường làm giảm cảm giác ngon miệng - có biểu hiện giảm xuống, trong khi lượng đường trong máu và chất insulin có dấu hiệu tăng; hoạt động của hooc môn gây căng thẳng thần kinh cortisol dường như bị đảo lộn. Khi hooc môn leptin giảm, cơ thể mệt mỏi và luôn có cảm giác thèm ăn. Điều này dẫn đến nguy cơ thừa cân béo phì. Tương tự như vậy, lượng đường trong máu và insulin tăng cao sẽ gây tiểu đường type 2, đồng thời sự bất ổn của huyết áp và hooc môn cortisol là mầm mống của bệnh đau tim. Các nhà nghiên cứu còn cho rằng, quá trình này không chỉ xảy ra ở người thường xuyên làm việc đêm, mà có thể đe dọa bất cứ ai có chế độ ngủ nghỉ thất thường. Kien Huy (Theo TPO/Reuters Health)
|
|
|
Post by NHAKHOA on Jun 9, 2009 20:49:45 GMT -5
Vài nét về virus Cúm heo (Swine influenza virus) Nguyễn Đình Nguyên 04/05/2009 Lịch sửLần đầu tiên vào năm 1918, người ta nhận thấy ở heo (heo) mắc chứng bệnh mà triệu chứng giống như bệnh cúm ở người trong đại dịch cúm 1918. Do thương tổn thể hiện giống nhau như thế, nên bác sĩ Koen đã gọi tên bệnh mới này cho heo là “cúm” (flu). Tuy nhiên mãi cho đến 1930, các khoa học gia mới phân lập được loại virus này trên heo, được xác nhận là dòng H1N1. Sau đó, năm 1933, virus dòng H1N1 của người cũng được phân lập. Giữa hai dòng H1N1 trên heo và người này có phần rất giống nhau, vì vậy các nhà khoa học đưa ra giả thuyết rằng H1N1 gây bệnh ở heo và người có thể có cùng một nguồn gốc. Các nghiên cứu hồi cứu trên các mẫu huyết thanh lưu trữ xác tín thêm niềm tin là virus gây đại dịch cúm ở người năm 1918 và virus gây bệnh cúm ở heo có chung nguồn gốc. Vì chỉ cho đến 1918 bệnh này mới phát hiện ở heo, trong khi đó thì cúm ở loài người hiện diện đã lâu, cho nên giả thuyết ban đầu các nhà khoa học cho rằng bệnh cúm lây từ người sang heo. Tuy nhiên không có đủ bằng chứng để xác định được nguồn lây chính xác là từ người sang heo hay từ heo sang người. Mãi cho đến năm 1974, các khoa học gia mới phân lập được virus cúm của heo này ở người, ca bệnh đầu tiên ở Fort Dix, tiểu bang New Jersey, Mỹ. Sau đó các xét nghiệm huyết thanh học ở người cũng cho thấy sự hiện diện của virus cúm heo, từ đó một đầu mối nghi ngờ có thể đường lây là từ heo, các virus gây bệnh ở heo vượt hàng rào chủng loại, truyền bệnh sang cho người. Các điều tra dịch tễ học trên diện rộng về sau cho thấy rằng mức độ vụ dịch lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào lượng kháng thể chống virus cúm heo ở người cao hay thấp; ngoài ra, người ta cũng thấy có một mối liên quan giữa quy mô nuôi heo với tỷ lệ bệnh cúm trong vùng đó, và vì thế mà các khoa học gia suy luận rằng chính virus cúm ở heo có thể là nguồn lây bệnh dịch tiềm tàng cho con người. Từ nhóm virus H1N1 cổ điển đó, các đợt dịch sau này người ta còn phát hiện ra các dòng hỗn hợp và lai tạp khác của virus cúm, chẳng hạn có thể tìm thấy H1N1 ở loài chim, H3N2 có nguồn gốc từ người, và dạng tái kết hợp H1N2 giữa chủng H1N1 cổ điển ở heo với H3N2 ở heo (giống với H3N2 ở người). Nếu chủng cúm heo cổ điển H1N1 phổ biến ưu thế ở Bắc Mỹ trước đó, thì cho đến năm 1990 đã bắt đầu có dấu hiệu thay đổi. Ở Canada, người ta phân lập được ở các con heo bị cúm, nhưng thủ phạm lại là H4N6 có nguồn gốc từ chim. Đến năm 1998 thì một virus heo dạng tái hợp mới H3N2 (heo-người và chim-heo-người) đã bắt đầu dấy lên ở Mỹ. Qua đó chúng ta thấy rằng virus cúm A có sự biến đổi và truyền chéo giữa động vật và con người, cứ mỗi lần chuyển dạng kháng nguyên như vậy có khả năng gây ra những dịch cúm lớn và là nguy cơ của đại dịch. Cấu trúc Về mặt cấu trúc, virus cúm được chia làm ba nhóm A, B và C. virus nhóm B và C thường là lành tính và chỉ gây các bệnh cảm cúm thông thường. Trong lịch sử các đại dịch cúm của thế giới, thủ phạm chỉ là virus cúm nhóm A, và mỗi một đại dịch cúm xảy ra, các khoa học gia cho rằng có vai trò biển đổi vật chủ, các virus cúm ở động vật như heo và chim, vượt rào cản chủng loại lây sang người. Yếu tố quan trọng nhất của đại dịch là những virus vượt rào cản chủng loại này có thể thích nghi ngay trong cơ thể người và có thể lây lan trực tiếp từ người sang người thì đại dịch cúm xảy ra. Tuy nhiên, điều này không phải dễ dàng. Đợt đại dịch cúm toàn cầu 1918, thủ phạm được nghi cho virus cúm heo H1N1 nêu trên. 1- Hemagglutinin, 2- Neuraminidase, 3- Matrix Protein, 4- Lipido Bilayer, 5- Polymerase, 6- Nucleoprotein, 7- RNA Influenzavirus A sous-type H1N1 (wikipedia) Về virus cúm A, được phân làm nhiều nhóm phụ dựa vào hai nhóm cấu trúc kháng nguyên bề mặt chính là HA (hemaglutinin antigen) và NA (neuraminidase antigen). . Kháng nguyên HA đóng vai trò kết gắn virus vào các thụ thể (receptors) của vật chủ (người) và hoà vào màng tế bào của vật chủ để tiến hành chu kỳ nhân bản. Còn NA thì được cho rằng có vai trò giải phóng các thế hệ virus con cháu đó ra khỏi các tế bào của vật chủ và trợ giúp cho các virus có thể xâm nhập được vào lớp màng bọc ở các tế bào biểu mô hô hấp. Hiện tại đã nhận dạng được 15 phụ nhóm loại HA và 9 phụ nhóm loại NA. Đáp ứng miễn dịch với virus cúm A và đặc điểm kháng nguyênMột khi người bị nhiễm virus cúm A thì đáp ứng miễn dịch của cơ thể là đầu tiên đánh vào các kháng nguyên HA và thứ phát vào NA, có nghĩa là trong cơ thể người sản sinh ra các kháng thể (là quân lính) đến kết gắn trực tiếp vào các kháng nguyên HA của virus và làm vô hiệu hoá virus này. Khi đó cơ thể có thể không bị bệnh hoặc có bị cũng chỉ nhẹ. Nhưng vì một lý do nào đó, trong một đợt cúm mới, cũng là một loại virus đó, nhưng cấu trúc HA hoặc NA thay đổi, khi đó cơ thể con người chưa kịp sản sinh ra các kháng thể đặc hiệu để có thể tiêu diệt được ngay virus, khi đó bệnh có thể nặng và có thể thành dịch lớn nếu độc tố của kháng nguyên trong virus mới này quá mạnh. Trong khi đó, virus cúm A được cho là loại virus không ổn định, với các kháng nguyên bề mặt HA và NA dễ biến đổi. Mặc dù việc HA và NA trong virus được kiểm soát bởi một gen, nhưng nhiều thành phần quan trọng khác của virus cúm được kiểm soát bằng nhiều gien hoặc sự tương tác của đa gen. Vì thế, các đột biến điểm hoặc các tái hợp di truyền mà có dính líu đến bất kỳ một trong 8 phân đoạn RNA nào của virus cúm nhóm A đều có thể có ảnh hưởng sâu rộng đến thay đổi trong vật chủ, virus và có nguy cơ tiềm tàng cho một đợt dịch cúm. Nhờ vào sự tiến bộ của các kỹ thuật sinh học phân tử, phân tích di truyền được cả 8 phân đoạn RNA của virus, đã mở ra một khung trời khám phá mới đầy thú vị liên quan đến việc đi truy tìm nguồn gốc của virus cúm và xây dựng các chiến lược phòng chống bệnh cúm nhóm A ở động vật. Tức là nếu chúng ta có cách nào đó, có thể tác động vào cấu trúc di truyền của virus cúm A, làm cho chúng giữ ổn định cấu trúc và không đột biến, thì chúng ta có thể kiểm soát được mức độ gây dịch. Thế nhưng, việc duy trì được các virus cúm nhóm A trong quần thê vật chủ tự nhiên phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa, như hoạt chất, vật chủ và môi trường và sự tương tác giữa các yếu tố này với nhau. Bất kỳ có một sự biến đổi nào trong các yếu tố này đều có thể làm thay đổi khả năng nhiễm bênh, khả năng lây nhiễm, độc tính virus, hoặc biến đổi vật chủ của virus và các mô hình dịch tễ. Lịch sử và các bằng chứng đã cho thấy có hiện tượng nhảy cóc của virus A từ vật chủ là heo hoặc chim sang người, thì khi đó có diễn ra một tỷ lệ đột biến virus lớn xảy ra cho đến khi nó thích nghi được với vật chủ mới. Và bằng chứng cho thấy hình như heo là cái nhà máy sản sinh ra những virus A tạp lai mới giữa các loài virus giữa heo-chim-người, và chính từ “nhà máy” này mà một đại dịch cúm mới có thể xảy ra. Nếu giả định này đúng, thì có thể có các chu kỳ sản sinh các virus cúm mới xuất hiện ở heo. Đợt dịch cúm nghiêm trọng ở người xảy ra tại Mexico trong tháng qua, đã lan sang Mỹ và một số nơi khác qua khách du lịch mà virus cúm có nguồn gốc là virus cúm heo, vậy liệu đây có phải là một vòng xoắn chu kỳ mới của nó không?
|
|
|
Post by NHAKHOA on Jun 9, 2009 21:13:44 GMT -5
Pénicilline Võ Thị Diệu Hằng Nước mắt khử trùng Fleming là một nhà nghiên cứu thực tiễn và bền chí. Một hôm ông quan sát thấy nước mắt có khả năng khử trùng. Và để lấy nước mắt cho cuộc thí nghiệm, ông mua ngay chanh để nhỏ vô mắt của những đồng nghiệp ông để làm họ chảy nước mắt. Ông thưởng cho mỗi người mỗi lần là 3 pence và nói: " Với tiền lương này, các bạn sắp có thể có tiền hưu rồi đó" Khám phá Pénicilline Ngày 3 tháng 9 năm 1928, bác sĩ Alexander Fleming, 47 tuổi, sau khi nghỉ hè, ông trở về phòng thí nghiệm ở Saint-Mary's Hospital tại Londres Ông ngạc nhiên vì những hộp pétri mà ông cấy staphylocoque có những đám vi khuẩn (colonies) màu trắng xanh mọc lên. Các hộp pétri của ông đã bị đám nấm nhỏ li ti ô nhiễm: nấm penicillium notatum. Trước khi vứt bỏ các hộp này, ông quan sát thấy xung quanh các đám nấm, staphylocoque không mọc lên được. Ông nghĩ rằng nấm penicillium notatum tiết ra một chất có thể diệt staphylocoque, nên ông đặt tên chất đó là pénicilline. Năm sau, ông đăng bản tường trình về sự khám phá của mình và trong suốt hàng chục năm, pénicilline ông tìm ra chỉ dùng để cô lập hóa vi khuẩn B. Influenzae trong phòng thí nghiệm. Sự tình cờ làm nên chuyện Florey qua Mỹ và liên hệ với hãng hóa học Peoria tại Illinois, chuyên tinh khiết hóa nước đã dùng rồi nhờ vi khuẩn chuyên biệt. Muốn có nhiều nấm mốc, họ ra chợ dặn những hàng trái cây rằng hãy đem bán cho họ khi nào chúng bị nấm mốc. Một hôm, một người đàn bà mang trái dưa úng phủ đầy mốc dạng đặc biệt khác thường. Các nhà nghiên cứu phân tích loại nấm mốc penicillium chrysogenum này và khám phá ra rằng nó có khả năng chế tạo pénicilline đến 200 lần hơn nấm penicillium notatum! Từ đó người ta có thể sản xuất pénicilline rộng lớn hơn. Các phòng thi nghiệm Mỹ Merck, Pfizer và Squibb tiên phong trong việc tìm cách sản xuất pénicilline trong kỹ nghệ. Không bao lâu, nhiều người bị nhiễm trùng được chữa khỏi Khám phá pénicilline của bác sĩ Alexander Fleming giúp cho nền y học mới Ngày 3 tháng 9 năm 1928, bác sĩ Alexander Fleming, 47 tuổi, sau khi nghỉ hè, ông trở về phòng thí nghiệm ở Saint-Mary's Hospital tại Londres Ông ngạc nhiên vì những hộp pétri mà ông cấy staphylocoque trên lớp su sa agar có những đám vi khuẩn (colonies) màu trắng xanh mọc lên, giống như mốc của fromage Roquefort. Các hộp pétri của ông đã bị đám nấm nhỏ li ti ô nhiễm: nấm penicillium notatum. Ông la lên " That's funny". Trước khi vứt bỏ các hộp này, ông quan sát thấy xung quanh các đám nấm, staphylocoque không mọc lên được. Mốc này là do một người đồng nghiệp chuyên khoa nấm (mycologie), Charles J. Latouche. Ông này làm việc trên những nấm gây dị ứng trên những bệnh nhân bị suyễn. Mốc này đã diệt những vi khuẩn Staphylocoque của Fleming đã cấy. Fleming nghĩ rằng nấm penicillium notatum tiết ra một chất có thể diệt staphylocoque, nên ông đặt tên chất đó là pénicilline (tiếng latin, "penicilline" là "nấm") Năm sau, 13 tháng Hai 1929, ông đăng bản tường trình về sự khám phá của mình nhưng Medical Research Club vẫn còn hoài nghi. Trong suốt hàng chục năm, pénicilline ông tìm ra chỉ dùng để cô lập hóa vi khuẩn B. Influenzae trong phòng thí nghiệm. Ông thử dùng chất này để xức vết thương, viêm màng kết mạc, viêm xoang. Nhưng khi tiêm vô máu thì không thành công vì khi tiêm xong, pénicilline không bền và không hoạt động. Năm 1935, Fleming đưa một hộp Pétri cấy peniciccium cho một đồng nghiệp ở St Mary's Hospital. Người này hỏi vì sao hộp pétri này lại quan trọng đến như vậy. Dù sao nó cũng là chương thứ nhất trong câu chuyện về một sự quan sát hay ho dẫn đến sự phát triển những thuốc kháng sinh tân tiến. (Ta có thể xem hộp pétri Penicillium này ở viện Bảo tàng Khoa Học tại London) Năm 1936, Howard Walter Florey, 48 tuổi, giáo sư bệnh lý tại Oxford nhận Ernest Boris Chain làm nhà hóa sinh học . Ernest Boris Chain là người Ðức, trốn chế độ Nazie và lo về lợi ích của pénicilline cho sứ khoẻ con người. Cùng với Florey và hai nhà vi khuẩn học khác, Edward P. Abraham và Norman Heatley, ông thực hiện việc làm tinh khiết chất pénicilline để dùng cho thật tốt. Tháng ba, 1940 ê kíp sản xuất thành công được 100 milligram 25 tháng Năm 1940 Florey tiêm một liều streptocoque cho 8 con chuột. Ông chữa trị bằng cách chích một lượng pénicilline cho 2 con và hai con chuột khác thì nhiểu lượng pénicilline liên tiếp. Sau 10 giờ, những con chuột được chích trụ sinh liên tiếp sống được cùng với một trong hai con đã được chích một liều trụ sinh. Lúc 3 giờ 45 sáng, ông viết vô vở phòng thí nghiệm khám phá nóng hổi: «It looks like a miracle!» (Giống như một phép lạ) Ê kíp ông vội vàng đăng vô tờ báo Lancet ngày 24/08/1940. Nhưng không ai thèm chú ý đến bài báo, bởi vì lúc đó Anh quốc bị không quân Ðức ném bom và bị hăm dọa sẽ xâm chiếm nên dân chúng có nhiều chuyện lo lắng hơn là chuyện pénicilline. Họ đã chữa trị được vết thương sưng mủ ở đùi một đứa bé 15 tuổi, nhưng cái khó khăn của họ là không làm sao để chế ra số luợng lớn pénicilline, nhất là vì lúc bấy giờ đang thời chiến tranh nên họ không được dân chúng và chính quyền giúp đỡ. Phải đợi đến ngày 16/08/1941 mọi người mới được biết kết quả chữa trị của pénicilline, ngày in bài "Further observations on penicillin." trên tờ báo y học The Lancet. Tại Bruxelles ngày 29 và 30 tháng mười một 1945, trong khi các trường đại học Bruxelles, Louvain và Liège tôn vinh ông là vị bác sĩ honoris causa, ông tuyên bố: "Tôi đã bị buộc tội là đã sáng chế ra pénicilline. Không ai có thể "phát minh" ra pénicilline bởi vì nó được làm ra từ xa xưa bởi thiên nhiên và một số nấm mốc. Không, tôi không có phát minh ra chất pénicilline.." " Ðó là một sự tình cờ , một sự tình cờ thuần túy" Fleming thổ lộ với hàn lâm André Maurois, khi họ gặp nhau năm 1945 khi André Mauirois viết về cuộc đời của Fleming.
|
|
|
Post by NHAKHOA on May 26, 2010 13:48:43 GMT -5
Viagra và Đồng Nhóm
Trong hơn mười năm vừa qua, một trong những dược phẩm được nhắc nhở tới khá nhiều và cũng được nhiều người sử dụng là thuốc chữa Bệnh Rối Loạn Cương Dương Viagra. Viagra được đưa vào thị trường vào năm 1998 và đã mang lại niềm vui xuân tình cho khá đông nam giới chẳng may rơi vào tình trạng “trên bảo dưới không nghe”của sinh hoạt tình dục. Vậy thì rối loạn cương dương là gì?
Đây là một rối loạn về tính cách lớn và cứng của cơ quan sinh dục người nam.
Theo National Health Institute Hoa Kỳ, RLCD là sự thường xuyên không có khả năng hoàn tất và/hoặc duy trì sự cương cứng để có thao tác tình dục thỏa mãn.
Trước đây, rối loạn này được gọi là bệnh bất lực nam giới (male impotence) hoặc liệt dương. Nhưng từ vài thập niên vừa qua, các chữ có tính cách « tiêu cực » trên được thay thế với danh từ Rối Loạn Cương Dương, nghe có vẻ nhẹ nhàng và chính xác hơn, vì người bệnh không mất chức năng sinh lý, vẫn duy trì được việc có con. Họ vẫn còn ước muốn tình dục, vẫn muốn phòng the. Nhưng khốn nỗi «cục cưng» lại ủ rũ mềm sèo, không xâm nhập sâu vào cái “hỏm hòm hom” được để hoàn tất thỏa mãn động tác làm tình cho tới lúc xuất tinh. Cũng như không đáp ứng được sự đòi hỏi của đối tượng.
Sự cương cứng là nhờ nhiều máu tràn ngập vào mô sốp trong dương cụ sau khi có kích thích của ước muốn tình dục. Sự cương này cũng xảy ra cho âm vật (clitoris) khi người nữ có kích thích sinh lý.
Rối loạn này có thể là tạm thời vì căng thẳng tinh thần, lo âu, trầm cảm. Nhưng trầm trọng hơn là ở bệnh nhân tiểu đường, bệnh xơ cứng động mạch, cao huyết áp, cao cholesterol, suy thận, sau phẫu thuật hoặc hóa trị ung thư nhiếp tuyến, nghiện rượu. Bệnh cũng thấy ở người ghiền thuốc lá, béo phì hoặc do tác dụng phụ của trên 200 loại dược phẩm như thuốc lợi tiểu, hạ huyết áp, chống trầm cảm, chống dị ứng, trị bệnh Parkinson, giãn cơ, hóa trị, các chất nicotine, thuốc phiện. Các thuốc này trấn áp hệ thần kinh trung ương và có thể gây tổn thương cho các động mạch và đưa tới RLCD.
Trước đây, khi mà tình dục được coi là riêng tư thì rối loạn cương dương đâu có được nhắc nhở tới. Cho nên bệnh nhân rơi vào tình trạng chịu đựng, kém tự tin, một mình mình chịu, một mình mình hay, không dám than thở cùng ai.
Ngày nay, vấn đề trở nên cởi mở hơn, bác sĩ, bệnh nhân dễ dàng nghe và chữa. Các nghiên cứu cho hay RLCD có thể điều trị được ở bất cứ tuổi nào, với nhiều phương tiện khác nhau, trong đó có Viagra.
Theo thống kê, có tới 5% nam giới ở tuổi trên 40 và 25% các cụ trên 65 tuổi đang ở trong tình trạng “mất những mùa xuân” này.
Trong hoàn cảnh nào Viagra được khám phá?
Khám phá ra tác dụng của Viagra là do một sự tình cờ. Như đã tình cờ tìm ra kháng sinh Penicillin, thuốc mọc tóc Rogaine… Đó là khi các nhà khoa học của viện bào chế Pfizer thử nghiệm thuốc sildenafil citrate để chữa bệnh nhân bị thiếu máu cơ tim ở một số người tình nguyện. Sau thời gian thử nghiệm, quý tình nguyện viên từ chối hoàn trả số thuốc không dùng tới, vì “thuốc giúp dương cụ chúng tôi cứng hơn và kéo dài lâu hơn thường lệ”. Đó là một trong mấy tác dụng của thuốc đang thử nghiệm.
Không bỏ lỡ cơ hội, Pfizer bèn để tâm nghiên cứu thêm và thấy quả tình là hoạt chất sildenafil có tác làm lớn dương cụ. Họ bèn khai thác vì những người bị RLCD đang mỏi cổ trông chờ tiên dược. Và công ty đặt tên riêng cho sildenafil là Viagra, một virility drug, viên thuốc cường dương, nam tính.
Vào ngày 27 tháng 3 năm 1998, Viagra là dược phẩm đầu tiên được cơ quan Thực Dược Phẩm Hoa Kỳ cho phép sử dụng để điều trị RLCD. Từ đó tới nay thuốc đã được cả triệu triệu người chiếu cố, trong đó có Thượng nghị sĩ nguyên là ứng cử viên Tổng thống Hoa Kỳ Bob Dole. Cụ Thượng xuất hiện trong một chương trình truyền hình, ca ngợi V là giúp rất nhiều cho chuyện “liệt dương của cụ” và đã giúp cụ lấy lại được nhiều mùa xuân sinh lý. Mấy năm sau, các dược phẩm có tác dụng tương tự Cialis, Levitra cũng được phép sử dụng.
Sự thành công về mặt thương mại của Viagra quá lớn khiến cho nhiều người nhái chữ Viagra để quảng cáo sản phẩm rỏm như (Max Vigra, VEagra). Tác dụng của Viagra ra sao?
Nitric Oxid được mô bào cơ thể liên tục sản xuất ở mức độ nhiều ít khác nhau. Khi có kích thích hoặc ham muốn tình dục, chất Nitric Oxide được sản xuất ở mô sốp cơ quan sinh dục nam. Qua một chuỗi phản ứng hóa học, chất cyclic guanosine triphosphate (cGMP) thành hình. Chất này sẽ làm cho cơ trơn động mạch dương cụ giãn, máu tràn ngập vào, dương cụ to và cứng. Nhưng cGMP không tồn tại lâu. Nếu cGMP sớm bị hủy hoại hoặc có quá ít thì máu thoát ra khỏi dương cụ rất mau và cơ quan này sẽ trở lại tình trạng ủ rũ. Chính ở giai đoạn này mà Viagra ra tay hành động: nó ngăn chặn sự hủy hoại của cGMP, khiến cho mạch máu tiếp tục giãn và cương dương kéo dài.
Vì vậy, Viagra chỉ có tác dụng khi người nam còn có ước muốn hoặc khi còn khả năng đáp ứng với sự khêu gợi kích thích. Chứ không phải như mèo chê mỡ, chán chường quay mặt đi, rồi nốc một thuốc tiên V, nằm chờ “thượng kỳ”.
Nhắc lại là ngày 21-11-2004, FDA đã nghiêm khắc yêu cầu Pfizer rút lại lời quảng cáo rằng Viagra giúp lấy lại ước muốn dục tính sexual drive vì không có căn bản khoa học. Những ai có thể dùng Viagra
Sildenafil được chỉ định cho bệnh nhân được chẩn đoán đang bị Rối Loạn Cương Dương.
Thuốc được trình bày dưới dạng viên màu xanh với viên 25, 50 và 100mg.
Liều lượng tùy theo tuổi tác, tình trạng sức khỏe, các thuốc đang uống của mỗi bệnh nhân và sẽ do bác sĩ chỉ định. Trung bình là 50 mg/ ngày. Liều lượng tối đa mỗi ngày là 100 mg. Không nên thay đổi liều lượng nếu chưa hỏi ý kiến bác sĩ.
Uống từ 30 phút đến 1 giờ trước khi giao hợp, bất cứ giờ nào trong ngày, khi đói cũng như no bụng.
Tác dụng kéo dài tới 4 giờ. Sau mỗi giao hợp, cương cứng có thể tái diễn nhưng tinh dịch giảm dần.
Rất tiếc là hiện nay chưa có Viagra quý bà mặc dù theo bác sĩ Edward Laumann, Đại học Chicago, thì tỷ lệ rối loạn tình dục tương tự ở nữ giới cao hơn nam giới. Những trường hợp không được dùng Viagra
-Đã dị ứng với hoạt chất sildenafil của Viagra.
-Trong khi đang uống thuốc chữa cơn đau thắt ngực có chất nitrates như Nitrate dán trên da, Nitroglycerin viên, amyl nitrate or nitroglycerin xịt. Sildenafil tăng tác dụng hạ huyết áp của các thuốc này.
-Với người mà bác sĩ khuyên không nên có giao hợp như đang bị bệnh suy tim trầm trọng hoặc cơn đau thắt ngực không ổn định.
-Sức chịu đựng với sildénafil của bệnh nhân suy gan trầm trọng, huyết áp thấp, tiền sử tai biến não hoặc nhồi máu cơ tim chưa được thử nghiệm. Do đó những người này không được dùng Viagra. Viagra có những tác dụng phụ gì
Trong thời gian thử nghiệm, các khoa học gia đã thấy Viagra có các dụng ngoại ý như nóng phừng trên mặt (30.8%), nhức đầu (28%), nghẹt mũi (18.7%), ợ chua (10,5%), chóng mặt. May mắn là các tác dụng này nhẹ và chỉ thoảng qua.
Tuy nhiên một tác dụng phụ khá quan trọng là đã có trường hợp vì dùng Viagra mà bị mù, rối loạn thị lực với mầu sắc vì giảm máu lưu hành tới dây thần kinh mắt (optic nerve).
Đôi khi Viagra có thể gây tử vong ở người dùng đã bị dị ứng với thuốc.
Nếu dương vật cương cứng kéo dài trên 4 giờ thì cần phải đi cấp cứu ngay vì bị chứng cương thường xuyên (priapism), nếu không, con chim sẽ thiếu máu, bị hủy hoại. Một vài “bàn tán thị phi” về Viagra
Như là:
-Khả năng tác xạ lâu dài là do thuốc trợ lực chứ không tự bản thân, nên giảm phần tình tứ, lãng mạn, không có sự “đôt xuất” hứng tình do khêu gợi mời chào.
-Có thể tạo ra sự “bất đồng cảm giác” nam nữ vì nam thì quá sung sức mà nữ thì chỉ chịu đựng, chống trả. Hậu quả là nam nhân tìm đối tượng tương xứng khác. Do đó chỉ nên dùng khi có sự “đồng thuận” của đôi bên.
-Hiện nay nhiều người trẻ không bị RLCD cũng dùng Viagra như một dược phẩm giải trí recreational drugs. Đây là điều chẳng nên làm vì những tác dụng phụ của thuốc. Người bị RLCD cần thuốc thì đôi chút hậu quả cũng bỏ qua, nhưng còn hùng dũng mà cũng a dua dùng theo thì e rằng lợi bất cập hại. Khác biệt giữa Viagra và đồng nhóm
Cho tới nay, có ba dược phẩm được công nhận để chữa RLCD. Đó là Viagra, Cialis và Levitra với cùng chung nguyên lý tác dụng là làm cho máu vào dương cụ nhiều hơn để duy trì tình trạng cương lâu dài của cơ quan này, nếu người bệnh còn duy trì được ước muốn dục tình.
Kết luận
Trước khi có Viagra và đồng nhóm thì rối loạn cương dương đã được chữa trị với những phương tiện khác, như tâm lý trị liệu, chích thuốc trực tiếp vào dương vật, bơm tay hút máu vào dương cụ, giải phẫu, ghép chim plastic, nhét viên Muse vào niệu đạo, uống một chút testosterone, chất yohimbine, dược chất trong nhiều loại cây con thiên nhiên. Nhưng phải công bằng mà nói rằng sự hiện diện của “Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ” C.L.V. có tác dụng tốt hơn và dễ dùng hơn.
Tuy nhiên, một phương khác cũng công hiệu không kém mà lại sẵn có, không tốn nhiều tiền. Đó là tự tạo cho mình một nếp sống lành mạnh với không rượu không thuốc lá, vận động cơ thể đều đặn, giảm thiểu căng thẳng lo âu trầm cảm. Và một tình yêu nam nữ nồng cháy, thật tình.
Phương pháp mà nam nữ ai ai cũng áp dụng được.
Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức
Texas- Hoa Kỳ.
(www.bsnguyenyduc.com)
|
|
|
Post by NHAKHOA on May 26, 2010 13:51:59 GMT -5
Hoạt Động Tình Dục
Quà Tặng Thêm của Hoạt Động Tình Dục.
Xin hiểu hoạt động này theo nghĩa truyền thống là sự giao hợp giữa người nam và người nữ với mục tiêu có nối dõi tông đường hoặc để thỏa mãn nhu cầu khoái lạc cơ thể.
Hoạt động được dân gian ta coi trọng và xếp vào một trong tứ khoái:
Ăn uống cho đã khẩu nhưng cũng có mục đích cung cấp chất dinh dưỡng nuôi cơ thể.
Ngủ cho sướng con mắt nhưng cũng để phục hồi sinh lực, tu bổ hư hao.
Rồi đến “làm tình” với mục tiêu vừa mới nói ở trên.
Đệ tứ khoái là “đổng ìa”, hưởng luồng gió mát rợi thổi vào “cửa sau” mà cũng để loại bỏ cặn bã chuyển hóa có thể gây bệnh ra ngoài thân xác.
Các nhà y khoa học đã có nhiều nghiên cứu về chuyện thầm kín này và cùng chung ý kiến rằng, hoạt động tình dục là một phần của sự sống, một chức năng sinh học đặc biệt với “cho và nhận” đồng thời cũng là một nhu cầu không thể thiếu của con người.
Ngoài mục tiêu sinh con, đẻ cái hoặc cho vui (have fun), khoa học và các kỵ mã Don Juan kim cổ cũng nêu ra những điểm lợi và bất lợi khác của làm tình đối với sức khỏe.
Sau đây, là một số “quà tặng thêm” -bonus -đã được kể ra mà chúng ta có lẽ cũng chẳng nên bỏ qua. Vì nhất cử, lưỡng tiện, vừa cùng vui hưởng vừa thấy khỏe khoắn con người. Trước hết là sự trường thọ.
Kết quả nghiên cứu tại Đại Học Queens ở Belfast, công bố trên British Medical Journal năm 1997 cho hay, những ai luôn luôn tận hưởng khoái lạc tình dục đều sống lâu gấp đôi so với người lơ là với hành động sinh lý này.
Davey G. Smith và Frankel S. Yarnell J, Đại Học Bristol đã theo dõi 918 người tuổi từ 45-59 trong thời gian từ 1979- 1983. Họ rút ra kết luận là tử vong, đặc biệt về bệnh tim mạch, ở nhóm người giầu cực khoái tình dục ít hơn tới 50% so với những người nghèo cực khoái.
Một giải thích cho là, mỗi khi có cực khoái thì hormone DHEA (Dehydroepiandrosterone) từ nang thượng thận tăng sản xuất. Mà hormone này có khả năng tăng miễn dịch, tu bổ tế bào bị tổn thương, kéo dài tuổi thanh xuân, tăng nhận thức, tăng dục tình, tiêu hủy chất béo, giảm trầm cảm.
Sau một nghiên cứu, Giáo Sư Y Tế Công Cộng Shah Ebrahim, Luân Đôn, kết luận như sau: “Các bậc trung niên nên hân hoan biết rằng thường xuyên giao hợp sẽ có ít khả năng tăng rủi ro tai biến não mà còn được một quà tặng (bonus) là có một vài bảo vệ đối với bệnh tim trầm trọng”. Ông ta dí dỏm thêm rằng “Mối liên quan giữa tử vong và tần xuất làm tình được dân chúng rất ư là lưu ý tới”. Thực là không hổ danh “đệ tam khoái”.
Chưa hết, vị Bác Sĩ Thần Kinh Tâm Trí David Weeks, bệnh viện Royal Edinburgh bên Scotland, tiết lộ thêm rằng, nam nữ làm tình 4 lần một tuần nom trẻ hơn tuổi thực tới 10 năm cơ đấy.
Vậy thì bà con nào muốn sống lâu, trẻ trung xin mời làm một cuộc thử nghiệm xem “ất giáp” ra sao rồi chia xẻ kinh nghiệm bản thân với bạn bè.
Giảm trầm cảm, căng thẳng
Tuy nhiên, trường thọ mà tiêu cực, cô đơn, trầm buồn thì cũng chẳng ra gì.
Thì ta lại cầu cứu thao tác làm tình.
Vì theo Tiến Sĩ Mark Stibich, Đại học California ở San Diego, làm tình tăng sản xuất nhiều loại hormone, tăng gắn bó thân thình, giảm cô đơn trầm cảm.
Bác Sĩ Gordon Gallup, Đại Học New York ở Albany, thấy rằng, phụ nữ yêu đương với nam giới có xuất tinh đều yêu đời hơn. Với mọi dè dặt, ông giải thích đó là nhờ chất hưng phấn prostaglandin của tinh dịch thấm qua nội mạc tử cung, vào máu, kích thích thần kinh. Tuy nhiên, ông cũng “cảnh cáo” là không phải vì vậy mà khi làm tình với đối tượng lạ lại quên không mang áo mưa, kẻo mà bị lây HIV, viêm gan virus, giang mai, lậu mủ…
Giảm nguy cơ bệnh tim mạch
Nghiên cứu tại New England Research Institute in Massachusetts mới được American Journal of Cardiology công bố ngày 8 tháng 1 năm 2010 vừa qua cho hay, nam nhân làm tình ít nhất 2 lần một tuần sẽ ít bị bệnh tim hơn là đồng giới chỉ thưa thớt “yêu đương” mỗi tháng có một lần.
Tiếc rằng các khoa học gia chưa nghiên cứu ảnh hưởng của làm tình với bệnh tim ở nữ giới, nhưng một nghiên cứu do Calgary University, Canada cho hay làm tình thường xuyên khiến quý nữ nhân thính mũi hơn.
Tăng miễn dịch với cúm, cảm lạnh
Miễn dịch là khả năng bảo vệ cơ thể đối với các vi sinh vật gây bệnh như cảm lạnh, cúm qua trung gian của các bạch cầu hoặc kháng thể.
Các Giáo Sư Carl J. Charnetski và Francis X. Brennan, Jr., Đại Học Wilkes-Barre, Pennsylvania, cho hay nam nữ làm tình 1 hoặc 2 lần mỗi tuần có lượng IgA cao hơn nhóm “chay tịnh” hoặc chỉ làm tình một lần. Họ đo lượng kháng thể IgA trong nước miếng ở 112 sinh viên nam nữ tình nguyện tuổi từ 16-23, chia làm 4 nhóm.
Tuy nhiên hai nhà nghiên cứu cũng lưu ý rằng, nếu phòng the trên 3 lần mỗi tuần thì IgA không những không cao mà còn thấp hơn là khi chỉ “ấy” 1 hoặc 2 lần. Paul Pearsall, Ph.D., tác giả sách Superimmunity (Siêu Miễn Dịch) cũng đồng ý là giao tình thân mật tăng cường tính miễn dịch của cơ thể qua một loại hóa chất nào đó.
Giảm đau xương nhức khớp, nhức đầu
Theo Beverly Whipple, chủ tịch American Association of Sex Educators, Counselors and Therapists, các hormone sản xuất khi có hứng thú hoặc cực khoái tình dục có thể tăng ngưỡng chịu đựng (threshold) với cảm giác đau.
Nghiên cứu cho hay, khi có cực khoái tình dục, hormone oxytocin lên cao gấp 3 lần so với bình thường. Hormone này lại kích thích tăng tiết chất giảm đau tự nhiên endorphins, một loại morphine tự nhiên trong cơ thể, nhờ đó các cơn đau giảm rất nhiều.
Ocytocin cũng tăng gắn bó tình cảm và lòng quảng đại bao dung giữa những người tình. Đó là kết quả nghiên cứu của một số nhà khoa học tại các đại học Pittsburgh và North Carolina.
Riêng với migraine thì các bác sĩ lại có ý kiến khác nhau: Sex vừa làm giảm vừa là rủi ro đưa tới chứng nhức đầu này. Là môn thể thao tốt
Thể thao vừa giúp có sức khỏe tốt mà còn giúp giữ sức nặng cơ thể trung bình qua tiêu dùng năng lượng tích tụ.
Tiến Sĩ Patti Britton, chủ tịch American Association of Sexuality Educators and Therapists ở Los Angeles quả quyết rằng sex là mốt vận động cơ thể rất tốt
Các chuyên gia điều trị rối loạn tình dục đều nhắc nhở rằng hoạt động tình dục là môn thể thao tốt. Họ nêu ra thống kê cho hay 30 phút làm tình tiêu hao 170 calo, trong khi đó ½ giờ tập yoga tiêu 114 calo, đi bộ 3mile/giờ mất 153 calo, chơi bóng truyền 174 calo.
Như vậy thì nếu mỗi tuần lễ làm tình 3 lần là đễ dàng tiêu dùng cả gần 500 calo lấy đi từ lớp mỡ béo ở vùng mông, vùng bụng.
Nghiên cứu cũng cho hay người càng vận động thì khả năng hành xử tính dục của họ cũng sung mãn hơn. Với vận động từ 4 tới 5 lần mỗi tuần, 88% nữ nhân và 66% nam nhân báo cáo là khả năng này đạt trên mức trung bình. Lý do rất giản dị có thể là do họ tăng niềm tự tin với thân hình tráng kiện, “bắt mắt” hoặc vận động làm khí huyết lưu thông tốt tới cơ quan sinh dục.
Vì cắt giảm calo, làm tình cũng giúp ta tránh được nguy cơ béo phì, bệnh tim mạch, tai biến não, tiểu đường, giảm cholesterol, LDL, tăng HDL.
Giảm rủi ro ung thư tuyến nhiếp
Ung thư nhiếp tuyến vẫn là mối ưu tư của nam nhân cao tuổi. Vậy mà hoạt động tình dục lại giảm nguy cơ bệnh này.
Michael Leitzmann và đồng nghiệp tại Viện Ung Thư Quốc gia Hoa Kỳ đã thực hiện một nghiên cứu kéo dài trong 8 năm với gần 30,000 người tuổi từ 46-81 và đã công bố kết quả trên Journal of the American Medical Association (vol 291, p 1578) năm 2004.
Các thiện nguyện viên được đưa cho các câu hỏi mỗi hai năm về tần xuất làm tình xuất tinh. Kết quả cho thấy những người xuất tinh từ 21 lần trở lên mỗi tháng sẽ giảm được 33% rủi ro ung thư nhiếp tuyến so với những người chỉ xuất tinh từ 4-7 lần/tháng trong suốt cuộc đời. Với nghiên cứu này, tác giả cũng cho là giao hợp thường xuyên không là rủi ro gây ung thư nhiếp tuyến như vẫn tưởng.
Trước đây cũng đã có một nghiên cứu với kết quả tương tự nhưng ngắn hạn do Graham Gilles, Úc Châu, thực hiện.
Các tác giả đưa ra hai giải thích là sự xuất tinh thường xuyên loại bỏ khỏi nhiếp tuyến các chất có thể gây ung thư và cũng ngăn các tinh thể calci kết tụ với nhau trong ống dẫn tinh dịch.
Để kết luận, Giles nhắn nhủ là cần thêm nhiều nghiên cứu để xác định bonus này nhưng ít nhất xin mọi người yên tâm là làm tình không có hại mà có thể bảo vệ cục quý nhiếp tuyến của quý ông. Và lại còn cho khoái cảm nữa.
Còn nhiều phần thưởng khác nữa của thao tác tình dục, như là:
-Giúp ngủ ngon. Chẳng thế mà ngay sau khi xuất tinh hưởng thụ là anh chàng nằm lăn quay ra ngủ một mạch.
-Kết quả nghiên cứu tại University of Texas cho hay làm tình cũng tăng cường niềm tự tin của nhiều người. Điều này cũng đúng thôi, vì có hiên ngang lâm trận thì mới chinh phục và thỏa mãn được đối phương.
-Giúp cơ bắp ở sàn xương chậu mạnh hơn, tăng khả năng kiểm soát tiểu tiện của bàng quang, giảm rủi ro đái rắt ở tuổi già nam nữ.
-Với quý bà thì thao tác tình dục cũng có mấy điểm ăn thêm: Như khi estrogen gia tăng thì bớt được rủi ro bệnh tim, bớt được khó chịu trước ngày xuất kinh PMS, mềm ướt âm hộ, dễ siêu lòng trước mời gọi của nam nhân, tiết hương thơm cơ thể, giảm rủi ro bệnh nội mạc tử cung. Đây là bệnh tự miễn khiến với nội mạc phân tán khắp bụng, khiến cho bệnh nhân đau đớn vô cùng, nhất là khi làm tình. Nghiên cứu của bác sĩ Harvey Kliman, Đại học Y Yale công bố trên Gynecologic and Obstretic Investigation năm 2002 cho biết làm tình khi có kinh nguyệt có thể giảm tủi ro bị bệnh này tới 1.5 lần, so với phụ nữ không thao tác phòng the khi kéo cờ đỏ.
-Điều cần lưu ý ở quý bà, nhất là ở tuổi mãn kinh, mà nếu chạy tịnh chẳng chịu “tả xung hữu đột” tính dục thì cũng có rủi ro đấy. Đó là sự teo co mô bào âm hộ, gây đau khi nổi hứng muốn giao du thân mật với bạn già.
Kết luận
Gọi là “bonus” thì những điều vừa mới kể cũng đã quá nhiều để mà tận hưởng. Vậy thì xin tạm ngưng tìm kiếm thêm.
Chỉ muốn ghi lại ý kiến của nữ tài tử Marilyn Monroe: “Sex là thiên nhiên và tôi hoàn toàn tin tưởng trong sự hòa đồng với thiên nhiên”
Câu nói của nhà văn Hoa Kỳ Henry Miller: “Điều kết hợp thế giới với nhau, như tôi đã học được từ kinh nghiệm cay đắng, chính là thao tác giao hợp”
Và cảm nghĩ lý thú của cụ Nguyễn Công Trứ nhà ta:
“Cái tình là cái chi chi, Dẫu chi chi cũng chi chi với tình”
Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức Texas-Hoa Kỳ
|
|
|
Post by NHAKHOA on May 26, 2010 13:58:23 GMT -5
Quyết Định Trước Trong Y Khoa
Có những lúc rảnh rang, ngồi suy gẫm sự đời, lão chợt nghĩ tới ông bạn đồng tuế nằm trong bệnh viện từ hơn hai tháng nay.
Ông ta ở trong tình trạng mê nhiều hơn tỉnh vì hậu quả của tai biến mạch máu não. Bác sĩ đang tận lực áp dụng các phương pháp hiện hữu để cố gắng kéo dài cuộc sống cho ông. Nhiều lần vào thăm bạn già, lão cứ mung lung tự hỏi chẳng hiểu nếu ở trong hoàn cảnh như vậy, thì mình quyết định ra sao. Có nên tiếp tục đón nhận chữa trị để tạm thời thoát khỏi lưỡi hái tử thần. Hay là quyết định ngưng mọi trị liệu để nhẹ nhàng về với cha mẹ, tổ tiên.
Lão bèn tò mò tham khảo ý kiến người thầy thuốc bạn học từ xưa.
Bạn ta bèn làm một đường kể lể giải thích. Rằng thắc mắc của bạn già cũng là ưu tư của bàn dân thiên hạ nhiều người. Họ cũng đã từng chứng kiến cảnh nhiều bệnh nhân nhăn nhó đau đớn vì ung thư trong giai đoạn cuối hành hạ, phải liên tục uống thuốc chống đau. Lại có người hôn mê, tê liệt mà trên mình dây dợ chằng chịt nối với máy móc trợ tim, thông phổi, truyền nước biển, ống nuôi ăn dạ dày. Thực là sống dở, chết dở.
Thực vậy, sự tiến triển của y khoa học hiện đại đã cống hiến nhiều phương pháp thần diệu để kéo dài sự sống. Có trường hợp trái tim tưởng như đã ngưng đập mà chỉ với vài luồng điện giựt của máy cứu tim là tim tiếp tục bơm máu. Nhiều dược phẩm hữu hiệu đã chặn đứng sự tiến triển tác hại mấy nan chứng ung thư. Có điều là sự sống kéo dài như vậy có tinh anh linh lợi hay là lại ngất ngưởng, què quặt nhờ máy, nhờ thuốc. Bệnh nhân nằm đó, bất lực trong mọi quyết định mà thân nhân cũng bối rối, bỏ thì thương, vương thì tội. Tội cho cả người bệnh lẫn gia đình.
Tại Hoa Kỳ, Quốc Hội đã đứng ra giúp người bệnh giải quyết hoàn cảnh tiến thối lưỡng nan này.
Ngày 5 tháng 11 năm 1990, đạo luật Patient Self-Determination Act được thông qua. Luật yêu cầu bệnh viện, nhà dưỡng lão, chương trình chăm sóc cận tử (hospice programs), cơ quan chăm sóc sức khỏe phải hỏi bệnh nhân trưởng thành, khi nhập viện, về tình trạng các Quyết Định Trước ( Advance Directives/Advance Decisions) của họ về điều trị khi vì lý do nào đó mà không bày tỏ ý muốn được. Như trường hợp ông cụ bị tai biến ở trên. Luật phản ảnh sự tôn trọng tính cách tự chủ, độc lập của bệnh nhân đồng thời cũng tránh cho thân nhân những những bối rối không giải quyết được khi người thân nằm mê man bất tỉnh.
Đó là:
-Quyền tham dự và quyết định về các phương án chăm sóc sức khỏe.
-Quyền chấp nhận hoặc từ chối giải phẫu hoặc trị liệu.
-Quyền thực hiện bản Quyết Định Trước.
-Quyền có các dữ kiện về chính sách (policies) của nhà cung cấp dịch vụ y tế về các quyền kể trên của người bệnh.
Mục đích của Quyết Định Trước là để thông báo cho gia đình, bạn bè, giới chăm sóc sức khỏe điều mình muốn về trị liệu và để tránh bối rối, khó giải quyết sau này.
Luật cũng không cho phép các cơ sở y tế có thái độ phân biệt, kỳ thị đối với bệnh nhân chưa làm văn bản quyết định trước đồng thời cũng đòi hỏi các cợ sở này phải tổ chức các buổi hướng dẫn bệnh nhân, cộng đồng về ý nghĩa của văn bản “Quyết Định Trước”.
Thông thường, luật pháp cho phép thực hiện ba văn bản như sau:
1-Giấy Ủy Quyền Lâu Dài (Durable Power of Attorney)
Giấy này ghi tên người được mình lựa chọn thay mặt để quyết định về việc chăm sóc y tế khi vì lý do nào đó ta không quyết định được. Đó là Người Đại Diện (Agent).
Người đại diện:
-Không thuộc giới chăm sóc hoặc cung cấp dịch vụ y tế cho mình.
-Là người mình biết rõ và hoàn toàn tin tưởng có thể thay mặt mình quyết định mọi việc theo đúng ý của mình.
-Người đó cũng phải hiểu rõ ý muốn của mình và cũng có lòng tốt hy sinh cho mình.
Thường thường đa số chọn vợ /chồng hoặc người thân trong gia đình làm đại diện.
Cần một người trên 18 tuổi khác ký tên chứng kiến sự đề cử này.
Giấy có công hiệu từ ngày ký tới khi mình hết sống. Ta có thể hủy bỏ giấy này bất kỳ lúc nào bằng lời nói hoặc viết trên giấy tờ. Nếu muốn thay đổi nội dung thì phải viết lại.
Ta có thể đề cử thêm người thay mặt phụ, khi chẳng may người thay mặt chính không muốn hoặc không thể hoàn tất nhiệm vụ được giao phó.
Văn bản ghi rõ các điều mà ta muốn người thay mặt có thể làm trong việc điều trị bệnh tật của mình, chẳng hạn như:
-Quyết định mọi chăm sóc y tế dù mình chưa cận tử, hoàn toàn hoặc tạm thời bất tỉnh, khi không quyết định được trong trường hợp lú lẫn với bệnh Alzheimer.
-Liệu mình có muốn áp dụng các phương pháp cấp cứu khi mình thập tử nhất sinh;
-Bao giờ thì chấm dứt sự cấp cứu này.
- Khi nào thì từ chối một điều trị vì lý do tôn giáo hoặc lý do cá nhân khác.
-Có hiến bộ phận, thân xác cho mục đích khoa học, nhân đạo sau khi ta mãn phần.
2-Living Will
Cần phân biệt Living Will Ý Nguyện Trị Liệu (khi còn sống) với chúc thư/ di chúc trước khi chết.
Chúc thư là văn bản trong đó một người nói về việc phân chia tài sản của mình để lại và cách giải quyết các vấn đề trong gia đình sau khi chết.
Ý Nguyện Trị Liệu Living Will là văn bản thông báo cho giới chăm sóc y tế là mình không muốn áp dụng hoặc chấm dứt/ rút ra các phương pháp trị liệu với mục đích duy nhất là để trì hoãn diễn tiến sự chết khi mình có bệnh thập tử nhất sinh, không lật ngược, hết đường trị liệu và nếu khi đó mình không nói ra ý muốn này được.
Cần hai người làm chứng khi ký Living Will này. Nhân viên y tế đang chăm sóc sức khỏe cho mình không được làm nhân chứng.
Có thể hủy bỏ LV bất cứ lúc nào, bằng lời nói hoặc bằng văn bản và có bổn phận cho giới chức y tế hay là ta có làm LV này hay không.
3-Thông báo về điều trị tâm bệnh (Mental Health Treatment Preference Declaration).
Có mục đích cho hay nếu bệnh nhân muốn hoặc không muốn tiếp nhận liệu pháp co giựt điện (Electroconvulsive therapy) hoặc tâm dược để trị tâm bệnh khi ta không quyết định được cũng như nếu muốn nhập viện để trị tâm bệnh trong vòng 17 ngày.
Giấy có hiệu lực 3 năm kể từ ngày ký. Có thể hủy bỏ giấy này trước hạn kỳ nếu không đang điều trị tâm bệnh. Nếu đang điều trị mà muốn hủy bỏ phải đợi sau khi được điều trị mỹ mãn.
Cần hai nhân chứng khi thực hiện giấy này.
Cách thực hiện Quyết Định Trước
Có nhiều cách để viết văn bản này như:
-Dùng mẫu văn bản do bác sĩ cung cấp
-Xin mẫu ở cơ quan y tế công tư.
-Xin ở văn phòng luật sư.
-Tự mình viết ra những quyết định về chăm sóc mà mình muốn.
-Vào internet tìm kiếm mẫu.
Thực ra văn bản này không nên cầu kỳ, phức tạp mà chỉ cần nói lên những điều mình muốn khi mình không diễn tả được trong tương lai. Nội dung cần phù hợp với đòi hỏi của pháp luật.
Thảo luận với bác sĩ gia đình hoặc luật sư về các điều ghi trong văn bản trước khi ký tên. Có những điều mà các vị này có thể thêm vào mà mình quên. Làm sao để cả bác sĩ và mình đểu ưng ý với nội dung văn bản.
Nhớ áp dụng đúng đòi hỏi tại mỗi tiểu bang về chữ ký và người làm chứng.
Sau cùng là cung cấp văn bản đã ký này cho bác sĩ và bệnh viện chăm sóc mình; người đại diện, thân nhân và bằng hữu rất thân khác.
Nếu chưa làm Quyết Định Trước thì một người chăm sóc thay thế (surrogate) sẽ được lựa chọn. Theo thứ tự ưu tiên là người giám hộ (guardian), vợ/chồng, con đã trưởng thành, cha/mẹ, anh chị em, cháu đã trưởng thành, bạn thân hoặc người quản lý tài sản. Người này cũng không được yêu cầu nhân viên y tế chấm dứt điều trị cứu sống trừ khi bệnh nhân ở trong tình trạng không cứu chữa hoặc không đảo ngược bệnh trạng được.
Văn kiện quyết định trước được xếp vào hộ sợ bệnh lý của bệnh nhân khi nhập viện "Năm Điều Ước Muốn”
Tại Hoa Kỳ, có 40 tiểu bang chấp nhận bản “Năm Điều Ước Muốn “- The Five Wishes- do tổ chức Già Với Nhân Phẩm/Trong Tư Cách (Aging With Dignity) soạn thảo, phổ biến. Đó là:
-Ước muốn 1: Về người mình muốn họ đại diện để quyết định về mọi việc chăm sóc khi mình không làm được. Đó là giấy ủy quyền.
-Ước muốn 2: Các trị liệu mà mình muốn hoặc không muốn. Đó là living will.
-Ước muốn 3: Ước muốn được thoải mái khi lâm vào trọng bệnh như dùng thuốc gì để giảm đau đớn, chăm sóc cá nhân tắm rửa, trang điểm làm tóc, làm móng chân tay, loại âm nhạc ưa thích…
-Ước muốn 4: Nói lên điều mình muốn được đối xử, như muốn được chờ chết ở nhà, có người tới thăm, có lãnh đạo tinh thần cùng cầu nguyện...
-Ước muốn 5: Nhắn nhủ với gia đình những điều mình muốn nói, chẳng hạn như chia xẻ tình thân đối với mỗi người, về ma chay, về tương lai con cháu…
Theo tổ chức AWA, văn bản Năm Ước Muốn đã giúp nhiều triệu gia đình tại Hoa Kỳ giải quyết về khi thập tử nhất sinh mà không nói ra ý muốn điều trị. Với ngôn từ giản dị, Năm Ước Muốn hội đủ đòi hỏi pháp lý tương tự như những quyết định trước tại 40 tiểu bang và giúp ích nhiều người tại 50 tiểu bang.
Tuy nhiên, nên tham khảo với bác sĩ và luật sư trước khi chỉ dùng tài liệu này thay thế cho văn bản Quyết Định Trước..
Một vài định nghĩa
-Bệnh ở giai đoạn cuối (Terminal Ill Condition) là một tổn thương cơ thể không chữa khỏi hoặc không đảo ngược được với tử vong gần kề và điều trị cứu sống chỉ kéo dài diễn tiến sự ngắc ngoải.
-Bất tỉnh vĩnh viễn (Permanent unconsciousness) là hoàn cảnh vĩnh viễn, không hồi phục trong đó bênh nhân không còn khả năng suy nghĩ, đối đáp, hiểu biết và các phương pháp cứu sống chỉ mang lại rất ít ích lợi y học.
-Phương thức kéo dài sự sống (Life Prolonging Procedure) là các phương thức trị liệu hoặc can thiệp cơ khí, nhân tạo để duy trì, phục hồi hoặc thay thế một chức năng sinh tử của cơ thể mà khi áp dụng chỉ có mục đích kéo dài diễn tiến sự chết, kể cả cung cấp nước uống, thức ăn bằng ống, thuốc giảm đau.
-Phương thức không cấp thiết (Elective procedures) có thể lựa chọn như xạ trị, hóa trị…không có mục đích kéo dài sự sống.
-Không làm hồi tỉnh tim phổi (Do not resuscitate order) khi tim ngưng đập, phổi ngưng thở với phương pháp cấp cứu tim phổi (Cardiopumonary Resuscitation-CPR), như dùng bàn nhấn đè lên ngực, tiếp không khí miệng vào miệng, đặt ống thông cuống họng.
-Chăm sóc thoải mái (Comfort care) giúp bệnh nhân cảm thấy dễ chịu nhưng không làm họ bớt bệnh, chẳng hạn tắm rửa, thoa kem mềm da, mềm môi…
-Tình trạng đời sống thực vật vĩnh viễn (Persistent Vegetative State) khi bệnh nhân hôn mê khó có hy vọng hồi tỉnh dù có điều trị. Thân mình có thể mấp máy cử động, mắt có thể mở nhưng không có tinh anh, có thể không còn suy nghĩ, đáp ứng.
-Hiến tặng cơ quan, mô bào (Organ and Tissue donation) khi người bệnh muốn tặng mắt, thận, da sau khi chết để ghép cho người có nhu cầu hoặc dùng trong nghiên cứu khoa học.
Lời Kết
Sau khi được bạn già ngành y giải thích đầy đủ, lão bèn nhờ lão bà nội tướng lấy hẹn với bác sĩ xin hướng dẫn làm giấy Quyết Định Trước để yên tâm, chứ cứ chần chừ đến khi chẳng may té ngã, tai biến bất thình lình, hôn mê nằm “ăn vạ đời, ăn vạ gia đình” cả tháng cả năm thì quá trễ.
Như ông bạn già đang nằm “mơ màng hồn vía lởn vởn trên chín tầng mây” trong bệnh viện.
Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức
Texas-Hoa Kỳ
|
|